Hôm nay, khi giao thương sông nước dần lùi vào ký ức, tiếng hát ấy vẫn còn đó, chỉ là thưa vắng hơn, lặng lẽ hơn như một dư âm của một thời sông nước đã xa.
Tiếng hát giữa mênh mang con nước
Con sông buổi sớm còn phủ một lớp sương mỏng. Mặt nước lăn tăn, phản chiếu những vệt nắng đầu ngày rơi vãi từ hàng dừa ven bờ. Nếu trở lại ền Tây vài chục năm trước, vào những buổi tinh mơ như thế này, người ta không chỉ nghe tiếng mái chèo khua nhẹ, tiếng máy ghe ì ì xa xa, mà còn nghe… tiếng hát.
Một tiếng hát mộc mạc, ngân nga, không cần nhạc đệm, không sân khấu, không khán giả cố định: tiếng hát thương hồ.
Ngày xưa, sông nước là con đường lớn nhất. Ghe thuyền nối ghe thuyền, chợ nối chợ. Từ Cái Răng, Phụng Hiệp, Ngã Năm cho tới Rạch Giá, Hà Tiên…, mỗi con sông đều là một mạch sống. Trên những mạch sống ấy, người ta buôn bán, trao đổi, nuôi lớn cả một vùng đất.
Chị Lâm Minh An, 40 tuổi, một tiểu thương gắn bó với sông nước, theo mẹ rồi theo bà lam lũ trên dòng sông Hậu, nhớ lại: “Ngày đó, gia đình tôi đi ghe từ khuya. Trái cây chất đầy khoang, con nước lớn thì tranh thủ đi. Đi riết thành quen, buồn buồn là hát. Hát cho mình nghe, hát cho mấy ghe bên kia nghe, nhiều khi hát để… quên mệt.”
Tiếng hát không cần đúng nhịp, không cần tròn câu. Có khi chỉ là vài câu hò, vài câu vọng cổ kéo dài theo làn nước. Có khi là một câu lý quen thuộc, được sửa đôi ba chữ cho hợp cảnh buôn bán, mời chào, hỏi thăm, rồi kể lể. Hát giữa sông, giọng người này vọng sang ghe người kia, không thấy mặt mà nghe giọng, vậy là thành quen.
Ông Trần Đê, ngụ tại phường Long Xuyên – người từng có gần 20 năm gắn bó với giao thương sông nước cho biết, cuộc đời lênh đênh trên con nước không an nhàn nhưng cũng chẳng thấy vất vả. Bởi cuộc đời tiểu thương ngoài chiếc ghe, tiếng sóng vỗ mạn thuyền bầu bạn thì còn có tiếng ca. Hát một mình khi chạy thuyền rảnh rỗi, hát cho đời bớt cực và nhẹ tênh…: “Hồi đó mà đi chợ nổi không nghe tiếng hát là thấy thiếu thiếu. Có bữa mưa gió, ghe neo sát nhau, mấy bà mấy cô hát đối đáp qua lại, vui dữ lắm. Cực thì có cực, mà thấy đời vẫn thương.”
Tiếng hát thương hồ mang trong nó một thứ yêu đời rất lạ. Giữa cuộc mưu sinh bấp bênh, giữa nắng mưa thất thường, người ta vẫn hát. Không phải để quên hết khó nhọc, mà để nhắc mình rằng còn sống, còn buôn bán được, còn gặp người này người kia. Tiếng hát là niềm an ủi, là sợi dây níu con người với sông nước.
Những buổi chợ đông, ghe chen ghe, hàng hóa chất cao hơn đầu người, tiếng rao hòa với tiếng hát, tạo nên một bản giao hưởng rất riêng của ền sông nước. Người bán vừa cân trái cây vừa ngân nga vài câu, người mua nghe quen tai thì cười, trả giá cũng nhẹ nhàng hơn. Có khi, một câu hát lại mở đầu cho một mối thân tình kéo dài cả chục năm.
Dư âm thương hồ
Nhưng rồi, con nước đổi dòng. Đường bộ mở ra, cầu bắc qua sông, xe tải thay ghe thuyền. Chợ nổi thưa dần. Những bến sông từng tấp nập giờ chỉ còn lác đác vài chiếc ghe cũ. Tiếng máy nổ dồn dập hơn, nhanh hơn, nhưng tiếng hát thì…thưa vắng.
Chị Minh An giờ đã lên bờ buôn bán nhỏ. Ghe bán trái cây nằm im ở mé sông, phủ bụi thời gian. Chị nói, lâu rồi không còn ai hát nữa: “Giờ người ta đi nhanh lắm. Chạy cho kịp chuyến, kịp giờ. Có ai còn rảnh mà hát đâu. Mà hát thì ai nghe?”
Ông Nguyễn Văn Sơn, ngụ phường Rạch Giá – người từng có quãng đời dài trôi theo con nước, xem chiếc ghe như mái nhà của mình. Thế rồi, theo vòng xoáy cuộc sống, ông rời bến, bỏ thuyền, lên bờ mưu sinh. Xa rời sông nước, nhưng thỉnh thoảng ông vẫn ra bến sông, ngồi lặng nhìn dòng nước chảy như một thói quen khó dứt. Có lúc, ông khe khẽ ngân vài câu vọng cổ cũ. Giọng đã khàn, hơi đã yếu, nhưng ánh mắt thì vẫn xa xăm, ông Sơn hát cho nhớ, nhớ ngày mình còn trẻ, nhớ thời còn đi ghe và sống cùng với con sông, dòng nước: “Ngày xưa ghe xuồng đậu ở sông nhiều lắm. Rồi anh em làm nghề sông nước cứ mỗi lần buôn bán xong là tụ họp hát ca. Giờ chỉ còn là hoài niệm, mỗi lần đi ngang là nhớ lắm.”
Tiếng hát bây giờ không còn vang vọng giữa sông nước mênh mang như trước. Nó chỉ còn trong những buổi chiều hiếm hoi, khi một vài tiểu thương cũ gặp nhau, nhắc chuyện ngày xưa. Có khi, tiếng hát bật ra rất khẽ, như sợ làm phiền nhịp sống hiện đại xung quanh.
Nhưng dù ít dần, tiếng hát thương hồ chưa hẳn đã mất. Nó vẫn còn đó, trong ký ức của những người từng sống cùng ghe thuyền. Nó nằm trong câu chuyện kể cho con cháu nghe về một thời sông nước rộn ràng. Nó là phần hồn của một nếp sống từng rất chậm, rất tình.
Giữa những con đường bê tông thẳng tắp, giữa những chiếc xe lao nhanh không ngoái đầu, đôi khi người ta chợt thèm một tiếng hát vang lên từ đâu đó trên sông. Không phải để quay lại quá khứ, mà để nhớ rằng đã có một thời, con người mưu sinh mà vẫn đủ thảnh thơi để hát với đời.
Tiếng hát thương hồ dù chỉ còn là dư âm, nhưng vẫn nhắc chúng ta về một ền ký ức sông nước, nơi giao thương không chỉ là mua bán, mà còn là sẻ chia, là yêu đời, là cất lên tiếng hát giữa mênh mang phù sa.
Và biết đâu, trong một buổi sớm nào đó, khi con nước lớn trở lại, ta lại nghe một tiếng hát khe khẽ vang lên giữa dòng. Không ồn ào, không phô trương, nhưng đủ để làm ấm lòng những ai còn thương, còn nhớ ền sông nước ngày xưa.