Qua miệt cầm ca (Bài 12): "Dây Rạch Giá" và tiệm đóng đờn Sơn Ca ở Kiên Giang

Giữa miền biển Tây lộng gió, Rạch Giá từng là chiếc nôi của một dòng âm nhạc độc đáo, nơi tiếng đờn mộc mạc của người dân miệt thứ đã kết tinh thành một trường phái riêng, và đặt tên là dây đờn Rạch Giá.

Ra đời vào thập niên 1930, kiểu so dây này không chỉ làm say mê giới tài tử mà còn góp phần quan trọng vào sự định hình cây guitar phím lõm, linh hồn của vọng cổ Nam Bộ. Dẫu trải qua hơn nửa thế kỷ thăng trầm, hành trình của dây đờn Rạch Giá vẫn là một di sản đáng tự hào của vùng đất Kiên Giang.

Khởi nguồn dây đờn Rạch Giá

Xuôi theo dòng kinh nhỏ đổ ra biển Tây Kiên Giang (nay là An Giang), giữa những lớp phù sa mặn mòi, có một huyền thoại âm nhạc vẫn vang vọng đến hôm nay. Đó không chỉ là câu chuyện về một cây đàn hay một cách so dây, mà là cả hành trình sáng tạo của vùng đất đã sớm tiếp thu tinh hoa Đờn ca tài tử từ đầu thế kỷ XX. Ở nơi tiếng đờn trở thành tiếng lòng, nơi người dân gửi gắm hoài cảm và sự lạc quan rất Nam Bộ, dây đờn Rạch Giá xuất hiện như một nh chứng sống động cho sức sáng tạo của cộng đồng nghệ nhân ệt biển.

Để hiểu được dây đờn Rạch Giá, phải ngược dòng thời gian về năm 1919, khi nhạc sĩ Cao Văn Lầu công bố bản Dạ cổ Hoài lang tại Bạc Liêu. Một sáng tác làm thay đổi hoàn toàn diện mạo âm nhạc Nam Bộ. Bản nhạc này sau đó được đổi tên thành “Vọng cổ Hoài lang” và liên tục được tăng nhịp từ đôi, tư, tám rồi mười sáu.

Đến khoảng năm 1930, bản vọng cổ nhịp tư bắt đầu lan rộng khắp Nam kỳ. Cũng chính lúc ấy, tại bến sông Kiên (Rạch Giá) đã diễn ra một sự kiện và từ đó đặt nền móng cho sự ra đời của “dây đờn Rạch Giá”.

Trong buổi họp mặt của giới tài tử chiều hôm đó, ông giáo Tiên, một thầy giáo mê đờn ca, bất ngờ xin độc tấu bài vọng cổ nhịp tư bằng cây octavina của mình. Tiếng đờn nhỏ bé, âm vực sáng nhưng đầy trữ tình, khiến các nghệ nhân ở Rạch Giá ngỡ ngàng.

Bản độc tấu kết thúc trong những tràng pháo tay vang dội. Kiểu lên dây của ông giáo Tiên khác hẳn với cách so dây thông thường. Từ đó, nghệ nhân quanh vùng gọi kiểu so dây ấy bằng cái tên thân thuộc là dây Rạch Giá.

Dây Rạch Giá từng một thời vang danh khắp Nam kỳ lục tỉnh, làm xiêu lòng giới nghệ sĩ (Ảnh sưu tầm)

Những năm 1931 – 1935 được xem là giai đoạn dây Rạch Giá phát triển mạnh mẽ, từ nhịp 4 chuyển dần sang nhịp 8, 16 rồi 32, song hành với sự hoàn thiện của cây đàn guitar phím lõm. Khi tiếng đờn octavina không còn đủ sức truyền tải sự phong phú của bản vọng cổ, cũng là lúc những người thợ tài hoa ở Rạch Giá tìm cách cải tiến nhạc cụ.

Nhiều tư liệu cho rằng, quá trình hoàn thiện dây Rạch Giá đã góp phần quan trọng vào sự ra đời của cây guitar phím lõm. Ngày ấy tại phường Vĩnh Thanh Vân, nơi được xem là trung tâm của phong trào tài tử Rạch Giá có một nhóm nghệ nhân từ 5 đến 7 người đã nghĩ đến việc đưa cách so dây Rạch Giá lên cây đàn Tây Ban Cầm (guitar). Họ mài, giũa, rồi móc phím thành hình bán nguyệt, tạo nên những nốt nhấn, luyến láy mềm mại đặc trưng của âm nhạc tài tử.

ThS. Nghệ sĩ Ưu tú Huỳnh Khải, người có nhiều năm nghiên cứu về dây Rạch Giá, cho biết: “Dây Rạch Giá hình thành trên guitar phím lõm qua ba giai đoạn. Bắt đầu từ việc móc phím cây đờn mandolin giữ nguyên dây quãng 5, sau đó đến cây guitar phím lõm ra đời nối tiếp cách lên dây quãng 5 tương tự để đờn thì lúc đó Dây Rạch Giá có thể gọi là hoàn chỉnh. Rồi đến cuối thập niên 30 khi cây guitar phím lõm với 6 dây như ngày nay thì dây Rạch Giá mới thực sự gọi là hoàn thiện.”

Dây Rạch Giá được xem như một biến thể của dây lai (hò nhất) nhưng độc đáo ở dây số 1, nơi nghệ nhân nhấn nhá, khoan nhặt tùy theo cảm xúc. Vì vậy, dây đờn Rạch Giá đặc biệt phù hợp cho độc tấu, mang màu sắc chân phương, mộc mạc, thấm đẫm hơi thở đồng quê sông nước Nam Bộ. Nó không hợp với vọng cổ hơi dài hay những bản mang tính học thuật cao. Nhưng chính sự đơn sơ ấy lại tạo nên thứ âm nhạc “đi thẳng vào lòng người”.

Khoảng năm 1936, nhóm “Dây Đờn Rạch Giá” chính thức ra đời. Trường phái này nhanh chóng lan tỏa khắp ền Tây và cả ền Đông Nam Bộ. Hầu như người chơi tài tử nào thời ấy ai cũng biết lên dây Rạch Giá.

Đến thập niên 40, Rạch Giá có thêm một biểu tượng mới là tiệm đàn Sơn Ca của ông Sáu Oanh. Cửa tiệm nhỏ này ở cua Cây Cồng, gần cầu Quay, nhanh chóng nổi tiếng khắp Nam kỳ lục tỉnh. Những cây guitar phím lõm và đàn kìm từ tiệm Sơn Ca không chỉ đẹp về hình dáng mà còn có âm sắc “kêu cả thùng, kêu cả dây”.

Một thời vang danh, ấy vậy mà giờ đây những thông tin về ông Sáu Oanh, hay tiệm đờn chỉ còn trong ký ức. Bởi ngày nay chẳng ai biết thông tin gì về người thợ tài ba cùng những cây đàn một thời làm xiêu lòng giới nghệ sĩ.

Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Hoàng Vũ, một người nặng lòng với Dây đờn Rạch Giá cho biết: “Điều khiến người dân Nam Bộ cũng như giới am hiểu nghệ thuật yêu thích chính là sự mộc mạc, giản dị và rất dễ chạm đến cảm xúc. Các nghệ nhân, nhà sưu tầm luôn trân trọng những giai điệu tài tử không chạy theo thị hiếu thị trường, mà giữ gìn những bí quyết bản đàn truyền thống, để phù hợp với tâm hồn và cách cảm thụ của người Nam Bộ.”

Âm sắc một thời

Một số tư liệu khác cho rằng, người đặt nền móng cho dây Rạch Giá là ông Nguyễn Văn Lạc (Ba Lạc), một công chức mê âm nhạc. Ban đầu, ông nghiên cứu kiểu đờn vọng cổ mới trên cây mandolin nhưng chưa hài lòng. Ông tìm đến người học trò của mình chính là ông giáo Tiên, người sau này trình diễn bên sông Kiên để tiếp tục cải tiến trên cây guitar nhỏ du nhập từ phương Tây.

Từ mandolin đến guitar móc phím, từ octavina đến guitar phím lõm, đó là cả một quá trình sáng tạo liên tục của giới tài tử Rạch Giá. Và kết quả chính là một kiểu dây mới vừa mang âm sắc cổ truyền, vừa mở rộng được âm vực, đáp ứng nhu cầu diễn tấu bản vọng cổ đang ngày càng phát triển.

Dây Rạch Giá từ đó trở thành nền tảng cho nhiều kiểu dây khác như Dây Tứ Nguyệt, Dây Lai, Dây Sài Gòn…và nhiều biến thể được đặt theo tên nghệ nhân.

NNƯT Nguyễn Hoàng Vũ, một trong những người nặng lòng với dây đờn Rạch Giá (Ảnh Đoàn Thế Hạnh)

Giai đoạn 1930 – 1960, Rạch Giá thật sự là cái nôi của phong trào đờn ca tài tử Nam Bộ. Nhưng như nhiều giá trị xưa khác, dây đờn Rạch Giá dần đi vào lãng quên khi âm nhạc cải lương phát triển theo hướng chuyên nghiệp hóa, hơi dài của vọng cổ không còn phù hợp với kỹ thuật dây Rạch Giá, và sự xuất hiện của các kiểu dây mới mang màu sắc hiện đại hơn.

Ngày nay, dây Rạch Giá chỉ còn sống thấp thoáng trong kiểu dây lai, dây hò ba. Đôi khi, trong một câu luyến láy của nghệ nhân lớn tuổi, người ta mới nghe lại chút hơi thở của “đàn Rạch Giá xưa”. Đó là một sự tiếc nuối nhưng cũng là lời nhắc nhớ về giá trị của quá khứ.

Nhiều nghệ nhân, nhà nghiên cứu trẻ đang nỗ lực khôi phục kiểu dây này. Bởi theo họ đây là di sản sáng tạo độc đáo của người Kiên Giang, là một mảnh ghép quan trọng trong lịch sử hình thành guitar phím lõm, và còn là “ký ức tập thể” của cả một thế hệ nghệ sĩ Nam Bộ.

Nói về Dây Rạch Giá, soạn giả Nguyễn Thiện Cẩn cho biết: “Khi dây đờn Rạch Giá ra đời, có thể nói không chỉ ở Rạch Giá – Kiên Giang mà nhiều tỉnh Nam Bộ cũng theo đó phát triển mạnh mẽ. Từ dây Rạch Giá, nhiều hệ dây khác được hình thành như dây Tứ Nguyệt, dây Lai, thậm chí dây Sài Gòn từng có giai đoạn thịnh hành rộng rãi.

Tuy nhiên, cùng với thời gian và sự đổi thay của xã hội, dây Rạch Giá dần trở nên hạn chế trước nhu cầu thể hiện ngày càng phong phú, đa dạng của đờn ca tài tử. Vì thế, loại dây từng một thời vang bóng này chậm rãi lui dần vào quá vãng.”

Tiếng đờn Rạch Giá có thể không còn vang lên nhiều trên đất Kiên Giang – An Giang hôm nay. Nhưng trong lịch sử âm nhạc Nam Bộ, nó là một dấu son đặc biệt, dấu son của sự sáng tạo, dấu son của những con người bình dị mê tiếng đờn và là dấu son của cả một vùng đất từng làm say lòng du khách bằng tiếng sóng biển và những câu vọng cổ nức nở.

Một thời huy hoàng đã xa, nhưng âm sắc ấy vẫn còn vang vọng trong tâm hồn những người mộ điệu. Mỗi khi nhắc đến guitar phím lõm, người ta lại nhớ về dây Rạch Giá, nhớ về ông giáo Tiên, tiệm đàn Sơn Ca và nhớ về Rạch Giá của gần trăm năm trước, nơi từng làm nên một trường phái âm nhạc độc nhất vô nhị của Nam Bộ.

Tiếng đờn ấy mộc mạc, chân phương nhưng sâu lắng vẫn như đang ngân lên đâu đó giữa bến sông Kiên, chở theo nỗi niềm và tự hào của bao thế hệ nghệ nhân ệt biển.