Dừng chân tại Nam Bộ, nền “đại nhạc” này được định hình đặt tên là Cổ nhạc. Các nghệ nhân và bậc anh tài của nền Cổ nhạc Nam Bộ là những người bình dân bước ra từ luống cày bám đầy bùn đất, có chung đam mê và sáng tạo.
Trong đó có danh sư Nhạc Khị - người đã sáng tạo ra trường phái Cổ nhạc Bạc Liêu và đóng góp công sức gầy dựng Cổ nhạc Nam Bộ nói chung.
>>> Series Podcast: Qua ệt cầm ca
Hậu tổ Nhạc Khị và dáng vóc trường phái cổ nhạc Bạc Liêu
Cổ nhạc là thuật ngữ chỉ nền âm nhạc cổ truyền, xa xưa, được cha ông để lại, bao hàm nhiều bộ môn: đờn ca tài tử, vọng cổ, cải lương. Thuật ngữ này dùng để phân biệt với nền âm nhạc được du nhập từ phương Tây mà người ta vẫn thường gọi là tân nhạc hoặc tân cổ.
Cuối thế kỷ 19, cổ nhạc ở Bạc Liêu đã hình thành và phát triển khá mạnh, nhưng vì còn mang tính gia truyền tự phát nên chưa phát huy được vai trò cần yếu và chức năng quan trọng của nó. Đến năm 1900, sự xuất hiện của bậc anh tài Nhạc Khị đã từng bước gầy dựng “dáng vóc” hoàn thiện của nền cổ nhạc Bạc Liêu.
Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Trần Phước Thuận – Chủ tịch Hội văn nghệ dân gian tỉnh Cà Mau cho biết: “Nhạc Khị là người khai sinh ra trường phái cổ nhạc Bạc Liêu, đã được anh em nghệ nhân, nghệ sĩ ở đây tôn xưng ông là Hậu Tổ. Tư tưởng và sáng tác của ông không những đã làm kim chỉ nam cho các hoạt động cổ nhạc ở Bạc Liêu mà còn gây ảnh hưởng sâu rộng đến các phong trào ca nhạc cổ ở nhiều nơi, nhiều tỉnh trong những thập niên đầu thế kỷ 20. Từ ngữ “Hậu Tổ” ở ền Nam từ 1975 trở về trước chỉ dùng để gọi một mình tên ông Nhạc Khị thôi. Sau năm 1975, người ta mới dùng để gọi tên nhiều người khác nữa”.
Nhạc Khị tên thật là Lê Tài Khí, sinh năm 1870 và mất năm 1948 tại huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu (cũ). Năm 1900, ông “đứng mũi chịu sào” thành lập ban cổ nhạc Bạc Liêu với bộ môn duy nhất là tập hợp nhiều thầy đờn chuyên phục vụ các đám ma chay, cúng kiến, tế lễ. Ban cổ nhạc Bạc Liêu chính là “lò” đào luyện ca nhạc sĩ đi tuyên truyền những bài ca khơi động lòng yêu nước của các tầng lớp nhân dân.
Đầu thế kỷ 20, ở Nam Bộ đã xuất hiện nhiều nhóm ca nhạc hoạt động dưới hình thức tài tử. Các nhóm này hình thành nhiều trường phái do đặc thù của mỗi vùng, ền. Nhạc Khị là một trong những danh sư đầu tiên cùng các học trò ra sức nghiên cứu, canh tân, hiệu đính các bài nhạc lễ cổ truyền.
Ông vải biên các bài bản của ca Huế, tiếp thu các giá trị đặc sắc của âm nhạc dân gian vùng ền,.. để tạo nên loại hình âm nhạc có giai điệu và nội dung phù hợp với ngôn ngữ, phong cách, tâm hồn, tình cảm của người dân Nam Bộ. Thành quả của cuộc canh tân này được đặt tên là trường phái cổ nhạc Bạc Liêu với đứa con đầu lòng là Đờn ca tài tử, mang giai điệu quê hương thắm tình dân tộc.
>>> Nghe series Podcast: Qua ệt cầm ca
Bà Trương Thị Chanh – Chủ nhiệm Câu lạc bộ Đờn ca tài tử Bạc Liêu, thành viên Hội văn nghệ dân gian Việt Nam cho biết, chính mình đã học được quan điểm của trường phái cổ nhạc Bạc Liêu do Hậu Tổ Nhạc Khị sáng tạo: “Mình học được rất nhiều từ kinh nghiệm sáng tác của ông, những từ ngữ của ông sáng tác rất gần gũi với đời sống hằng ngày. Với những bản của ông đã để lại cho đời, như: lý con sáo, phụng hoàng,…thì hằng tuần ở câu lạc bộ của tôi đều tập trung thành viên lại để xây dựng những bài bản của Tổ này”.
Từ “Chinh phụ vọng chinh phu” đến dòng chảy cải lương Nam Bộ
Trường phái cổ nhạc Bạc Liêu đặt tôn chỉ “nghệ thuật phục vụ con người và đất nước”, vì vậy theo quan điểm của danh sư Nhạc Khị, việc sáng tác chỉ nên xoay quanh hoàn cảnh đất nước, phải khắc họa hình ảnh trung thực đời sống nhân dân. Để cụ thể hóa việc làm này, ông đã cải biên bài Nam Ai cổ mang tên Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn và từ đó rút ra chủ đề Chinh Phụ Vọng Chinh Phu để hướng dẫn học trò. Chủ để này mang tính bi kịch cao, dễ làm xúc động lòng người, dễ nắn nót thành lời ca tiếng nhạc.
Câu ca tiếng đờn của chủ đề này gợi lên cảnh con xa cha, chồng xa vợ, gia đình ly tán do giặc đô hộ gây ra. Học trò của ông đều tiếp thu sâu xa lời dạy của “sư phụ”, thừa kế tinh thần yêu nước và họ đã sáng tác ra những tuyệt phẩm kinh điển, như: Dạ cổ hoài lang (tác giả Cao Văn Lầu), Tam quan nguyệt và Liêu giang (tác giả Ba Chột).
Một số lời ca: Đưa chồng ra mặt trận, Chinh phụ thán, Sầu chinh phụ,… đã từng khơi dậy cơn sóng tận đáy lòng trong tầng lớp nhân dân, giúp họ thức nhận cuộc đời này có chia ly là vì thân phận nô lệ. Muốn tự chủ, độc lập, tự do thì phải yêu nước, đứng lên tranh đấu. Lời hiệu triệu này được công chúng đón nhận nồng nhiệt. Từ đó, lớp nghệ nhân, nghệ sĩ ở Bạc Liêu tôn vinh ông là Hậu Tổ.
Sáng tác của Hậu Tổ Nhạc Khị đã làm kim chỉ nam cho các hoạt động cổ nhạc ở Bạc Liêu và theo xu thế dần có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến các phong trào ca nhạc cổ ở nhiều nơi, nhiều tỉnh trong những thập niên đầu thế kỷ 20.
Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Trần Phước Thuận kể: “Hậu Tổ Nhạc Khị dạy học trò theo chủ đề chứ không dạy lan man, ví dụ ông ấy dạy cho đệ tử Cao Văn Lầu và các học trò khác là lấy từ chủ đề Chinh Phụ Vọng Chinh Phu ở trong tác phẩm Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn. Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn hiện nằm trong 20 bản tổ nhưng hiện nay vẫn chưa biết Tiền Tổ sáng tác ra bài này là ai. Nhưng Nhạc Khị lấy bản này dạy học trò, rút ra ý nghĩa rằng, người vợ chờ chồng trong thế chiến thứ nhất, đây là ý nghĩa vô cùng sâu xa mà không phải người nhạc sĩ nào cũng suy nghĩ tới được. Một người vừa mù vừa khuyết tật thì họ thể hiện lòng yêu nước bằng cái gì? chỉ có thể yêu nước thông qua tác phẩm nghệ thuật. Cái hay nhất của danh sư Nhạc Khị là cụ đã gói ghém lòng yêu nước ở trong từng tác phẩm, mỗi tác phẩm của cụ đưa ra đều có nhiều ý tứ rất quan trọng”.
Thời điểm cải lương bắt đầu nở rộ (1930) đã có trên 100 bài bản khác nhau. Trong đó có 20 bài tổ kinh điển gồm có: 3 bản hơi Nam, 6 bản hơi Bắc, 7 bản hơi Lễ và 4 bản hơi Oán. Cái thời mà bài bản âm nhạc chưa có một giáo trình và tài liệu ghi chép, thông qua lời phát ngôn lúc sinh thời của soạn giả Cao Văn Lầu (học trò ưu tú của Hậu Tổ Nhạc Khị) thì chính “sư phụ” của ông là người có công canh tân, hiệu đính, hệ thống hóa và phổ biến rộng rãi 20 bản Tổ để làm cơ sở cho đờn ca tài tử và cải lương Nam Bộ.
Điều này đã được trích lục nguyên văn: “Tôi (nhạc sĩ Cao Văn Lầu) được thầy (Nhạc Khị) dạy đủ 20 bản Tổ và bốn bài Tứ Bửu từ năm 1906. Chính thầy là người có công trong việc canh tân, hiệu đính, đặt tên và hệ thống 20 bản nhạc có giai điệu độc lập thành 20 bản Tổ (ba nam, sáu bắc, tứ oán và bảy bài nhạc lễ)”.
Dù chi tiết này mấy chục năm nay vẫn còn đang tranh cãi với nhiều ý kiến phản biện, nhưng mỗi khi nhắc đến gốc rễ 20 bài bản Tổ của cải lương và đờn ca tài tử Nam Bộ thì danh sư Nhạc Khị chưa bao giờ bị bỏ quên trong bản công trạng người góp công canh tân bài bản Tổ.
Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Trần Phước Thuận lý giải thêm lời khẳng định của soạn giả Cao Văn Lầu: “20 bài Tổ này nguyên bản như thế nào thì không ai biết, lưu truyền trong dân gian thì không giống nhau. Năm xưa không có phương tiện hiện đại, sự truyền bá khiến nhiều người hiểu một kiểu, nhớ một cách khác nhau.
Tới khi Hậu Tổ Nhạc Khị dạy học trò thì phải gom lại, sắp xếp lại cho đúng để dạy học trò. Bản thân tôi cũng chưa có bằng chứng nào khẳng định cụ là người canh tân 20 bài bản Tổ, nhưng sự chỉnh đốn của cụ ra sao đều căn cứ vào lời phát ngôn của học trò mà cụ thể là soạn giả Cao Văn Lầu. Ngày xưa, dạy học không có trường lớp, mạnh ai nấy dạy, nhưng khi đã làm thầy dạy học thì phải chỉnh đốn “giáo trình” cho ngăn nắp. Cái tính của danh sư Nhạc Khị có tiếng là cẩn thận cho nên sự chỉnh đốn của Nhạc Khị khiến cho học trò mang ơn và thụ đắc trọn vẹn. Khi họ đã thu đắc thì họ nói lại cho hậu thế biết”.
Dù biết rằng, mảnh đất phù sa Nam Bộ đã dưỡng nuôi dòng chảy cải lương, nhưng giở từng trang danh sách tác giả cổ nhạc Bạc Liêu, giới nghệ sĩ vẫn choáng ngợp bởi sự trù phú của những tài năng âm nhạc nơi ền đất này.
Những nghệ danh nghe mộc mạc, chân chất như: Nhạc Khị, Sáu Lầu, Ba Chột... lại là những bậc danh họa kỳ tài xuất chúng, phác thành bức tranh âm nhạc tài tử, cải lương sinh động. Nguồn chất liệu trong thế giới sáng tạo của họ, không gì ngoài đời sống một nắng hai sương, dầm mưa dãi nắng nhưng đầy ân tình, ân nghĩa, hào hiệp, trung trinh.
Có thể thấy qua một loạt những sáng tác mới, những đề tài được phản ánh tập trung vào tinh thần yêu nước thương nòi, gìn giữ đạo nghĩa gia đình, xóm giềng, bằng hữu. Chính Hậu Tổ Nhạc Khị và trường phái cổ nhạc Bạc Liêu đã góp phần đưa dòng chảy âm nhạc đờn ca tài tử, cải lương không hề vơi và không bao giờ ngừng nghỉ.
>>> Nghe series Podcast: Qua ệt cầm ca