Với sự phát triển mạnh mẽ của giao thương; giao lưu văn hóa với văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc và các nước khu vực Đông Nam Á, Địa Trung Hải đã tạo tiền đề cho sự hình thành thương cảng từ rất sớm (thương cảng Óc Eo), đưa vương quốc Phù Nam trở thành quốc gia phát triển hùng mạnh nhất vùng Đông Nam Á vào những thế kỷ đầu Công nguyên.
Tại An Giang, các khảo cổ về văn hóa Óc Eo đã mang đến những giá trị đặc biệt, giúp chúng ta hiểu hơn về nền văn hóa này và quá trình hình thành dãy đất ền Tây Nam Bộ.
Tỏa sáng từ lòng đất Phù Nam
Khi mặt trời khuất sau ngọn đồi Ba Thê xanh thẫm, xuyên màn kính trong suốt, chiếc nhẫn Nandin Giồng Cát bằng vàng bắt đầu tỏa sáng. Chiêm ngưỡng bảo vật quốc gia có niên đại 1.500 năm tuổi, người ta phải cúi đầu trước kỹ thuật chế tác trang sức siêu hạng, đỉnh cao của người xưa và bắt đầu tìm hiểu về một nền văn hóa Óc Eo gắn với đất nước Phù Nam lừng lẫy một thời.
Văn hóa Óc Eo là thuật ngữ khoa học để chỉ một nền văn hóa khảo cổ. Óc Eo là tên một vùng gò đất trên cánh đồng phía Nam núi Ba Thê thuộc xã Óc Eo – tỉnh An Giang. Năm 1944, nhà khảo cổ Louis Malleret đến đây khai quật dấu tích một hải cảng bị sụp đổ trong lòng đất và thu được nhiều di vật của nền văn nh cổ xưa, Óc Eo trở thành tên gọi chung cho mọi di chỉ được phát hiện ở các địa phương khác.
Trải qua 81 năm nghiên cứu, diện mạo của nền văn hóa Óc Eo là chứng tích vật chất của quốc gia cổ Phù Nam, một đất nước đã phát triển rực rỡ trên nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội từ thế kỷ I đến thế kỷ VII đầu công lịch.
Tiến sĩ Lâm Quang Láng - Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử tỉnh An Giang cho biết: “Phù Nam được hình thành từ hai bộ tộc lớn sống ở ven biển, hai bộ tộc này mới chia ra làm hai quốc gia riêng biệt là Phù Nam và Chăm Pa. Các quốc gia này đều sống ven biển và tiếp xúc với nền văn nh có nguồn gốc từ Ấn Độ, Óc Eo lúc bây giờ là nơi gần với biển nhất nên được tiếp xúc với nền văn nh đó để hình thành nên vương quốc Phù Nam. Có những hiện vật của nền văn hóa này khai quật mà niên đại là có từ thời trước Công nguyên đến đầu Công nguyên và liên tục từ đầu Công nguyên đến thế kỷ thứ VII”.
Vào những thế kỷ đầu Công nguyên, lần đầu tiên trong lịch sử, một hệ thống kinh tế thế giới đã được thiết lập thông qua một số tuyến đường thương mại. Trong hệ thống đó, Óc Eo – Ba Thê đã nổi lên là khu vực có trình độ sản xuất và thương mại phát triển sôi động.
Con đường mậu dịch trên biển nối liền Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương tuân theo hải trình: Trung Hoa - Chămpa - Phù Nam - bán đảo Mã Lai - eo Kra nối Nam Á - Tây Á - Địa Trung Hải; Phù Nam nằm trên vị trí cực kỳ thuận lợi của hải trình Đông - Tây này. Đế chế Phù Nam lại kiểm soát toàn bộ con đường buôn bán ven biển qua bán đảo Mã Lai, do đó, đô thị cảng Óc Eo - Ba Thê sớm trở thành trung tâm mậu dịch quốc tế vô cùng quan trọng.
Tiến sĩ Lâm Quang Láng – Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử tỉnh An Giang nói rằng: “Eo Thái Lan đi thẳng về vùng biển Kiên Giang và từ đây dẫn vào cảng Óc Eo. Từ định vị biển Kiên Giang nhìn về đất liền sẽ thấy núi Ba Thê, lúc đó núi Ba Thê như một ngọn hải đăng vậy đó, tạo thành một điểm đến. Ở Óc Eo có một con kinh lớn tên là Lung Lớn nối ra cửa biển Rạch Giá, giáp cửa biển có một vị trí được khai quật lên gọi là Nền Chùa, chính vị trí này gọi là tiền cảng Óc Eo. Các nhà khảo cổ đã tìm được những sản phẩm giao lưu tại Óc Eo: đồng tiền La Mã, đèn Ba Tư, gương đồng La Hán, tượng phật Trung Hoa, đồng tiền của Phù Nam… những sản phẩm này đã từng tồn tại ở Óc Eo và chứng nh môi trường giao thương ở đây cực kỳ phát triển”.
Có mối quan hệ giao lưu rộng rãi với thế giới, được giao thoa và tiếp biến văn hóa - kỹ thuật, cư dân văn hóa Óc Eo làm chủ khắp vùng châu thổ sông Mekong, xây dựng phố thị, phát triển thủ công nghiệp ở bậc tài hoa thượng thừa. Phố cổ Óc Eo có những xưởng thủ công lớn, trình độ kỹ thuật cao, vừa đa ngành vừa chuyên môn hóa với thế mạnh chế tác đồ trang sức.
Các di chỉ được khai quật trong bán kín từ Bắc Tứ Giác Long Xuyên đến Đông Nam rừng U Minh Thượng đã khẳng định dấu ấn xưởng thủ công này, gồm: vòng, nhẫn, bông tai, dây chuyền, hạt chuỗi; được chế tác từ vàng, bạc, đá quý, thủy tinh, mã não, thạch anh; màu sắc đa dạng và mẫu mã cực kỳ sang trọng.
Ông Nguyễn Hữu Giềng – Nguyên Giám đốc Ban Quản lý Di tích Óc Eo, tỉnh An Giang cho biết: “Bảo vật quốc gia ở An Giang có nhẫn Nandin Giồng Cát được khai quật năm 2018. Bảo vật này được chạm khắc và làm từ khuôn đúc nhìn rất tinh xảo. Chiếc nhẫn này có niên đại từ thế kỷ thứ V sau Công nguyên, là một trong những bảo vật quốc gia được khai quật đầu tiên ở vùng đất Nam Bộ này”.
Hồi sinh di sản Óc Eo
Sống ở vùng đồng bằng thấp, gần biển, ngập lụt và xâm nhập mặn theo mùa, cộng đồng người Óc Eo cổ đã biết thích nghi với môi trường. Họ định cư trên nhà sàn gỗ quanh các gò đất cao, đào đắp nhiều kênh rạch để khai thác đất canh tác theo mùa; họ di chuyển bằng thuyền dọc theo các kênh rạch để ra biển, mang theo bếp cà ràng, bình đựng nước bằng gốm và lưới đánh cá.
Những mảnh thuyền gỗ, tiền vàng được khai quật càng làm rõ hơn năng lực khai thác biển cả để đưa đại dương trở thành nền kinh tế mũi nhọn trong của đế chế Phù Nam.
Tiến sĩ Bùi Phát Diệm – Nhà nghiên cứu Văn hóa Óc Eo cho biết: “Mối liên hệ của cư dân Óc Eo với bên ngoài bằng xuồng đi dọc kênh rạch là rất rõ ràng. Họ làm nông nghiệp rất giỏi, chúng tôi lấy vỏ trấu gửi đi Viện Khoa học Nông nghiệp xét nghiệm thì đây là loại lúa trời và các giống thuần chủng. Người ta sống trên nhà sàn bằng gỗ, mái lợp lá dừa nước”.
Sau 2.000 năm, các di tích văn hóa Óc Eo ngày nay rải rác khắp khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, bao gồm: Nền Chùa, Cạnh Đền (Kiên Giang cũ), Vĩnh Hưng (Bạc Liêu cũ), Lưu Cừ (Trà Vinh cũ), Nhơn Thành (Cần Thơ), Gò Tháp (Đồng Tháp), Gò Thành (Tiền Giang cũ) Gò Hàng - Gò Xoài - Gò Dung (Long An cũ). Trong đó, An Giang là địa phương có mật độ di chỉ dày đặc nhất với 80 di tích liên quan văn hóa Óc Eo.
Để bảo tồn và lan tỏa văn hóa Óc Eo, nhiều mô hình phục dựng không gian đô thị cổ Óc Eo đang được nghiên cứu, như: Tái hiện kiến trúc, trang phục, ẩm thực, thủ công mỹ nghệ, sinh hoạt thường nhật. Một số ý tưởng sáng tạo cũng được đề xuất như tổ chức hoạt động trải nghiệm “làm vua một ngày”, lễ hội theo phong cách Phù Nam, tập huấn người dân làm du lịch cộng đồng gắn với văn hóa Óc Eo.
Đây sẽ là bước phát triển đột phá, giúp hồi sinh một vùng đất tưởng như đã bị quên lãng, kết nối vào các tuyến du lịch trọng điểm của tỉnh An Giang.
Bà Nguyễn Xuân Minh – Phụ trách Tổ chức sự kiện Ban Quản lý Di tích Óc Eo cho biết: “Trung bình hằng năm, Di tích văn hóa Óc Eo đón 16.000 lượt khách đến tham quan. Mình sẽ phát triển và liên kết các Di tích lại, phát triển sản phẩm phi vật thể “Múa Óc Eo”. Du khách đến đây người ta tò mò lắm, muốn xem điệu múa này ra sao”.
Ở nước ta, ền Bắc nền văn hóa Đông Sơn, ền Trung có nền văn hóa Sa Huỳnh, còn châu thổ Cửu Long có nền văn hóa Óc Eo. Trải qua những biến thiên của lịch sử, các nền văn hóa đó đã tích hợp vào dòng chảy chung, thống nhất của văn hóa dân tộc Việt Nam.