Từ lớp học dựng tạm thô sơ với ánh đèn dầu leo lét, đến những bước chân vượt rừng, lội sóng ra bè cá vận động học trò quay lại lớp… tất cả đều in đậm bóng dáng người nữ nhà giáo thầm lặng, kiên cường. Vậy mà khi nhắc đến mình, “người mẹ hiền” của bao thế hệ học trò ấy chỉ coi đó là trách nhiệm. Chính sự hy sinh giản dị và bền bỉ ấy đã trở thành biểu tượng đẹp của tinh thần bám đảo, giữ đảo bằng con chữ.
30 năm bám đảo, gieo từng con chữ
PV: Xin chào cô Võ Thanh Kiều! Điều gì đã thôi thúc cô quyết định từ đất liền ra đảo để giảng dạy con chữ cho các em?
Ngày trước, chồng tôi làm giáo viên ngoài đảo Thổ Châu, tôi theo chồng ra đảo nhưng lúc đó chưa học sư phạm. Khi ra ngoài đây ở, mới thấy được những khó khăn, thiếu giáo viên trầm trọng vì đây là một hòn đảo rất xa bờ, chỉ có 2 giáo viên. Học sinh ngoài này gia đình rất nghèo, giáo viên phải tăng cường dạy thêm ca 3 buổi tối để bổ sung kiến thức cho các em, mà như vậy thì 2 giáo viên không đủ để đáp ứng. Thế nên tôi quyết định quay về đất liền học sư phạm và quay lại đảo để phục vụ con chữ cho các em ở đảo Thổ Châu.
PV: Cô Kiều có thể chia sẻ về khoảng thời gian công tác ngoài đảo, thưa cô?
Thời gian tôi ra đảo công tác rất khó khăn. Đầu tiên là điều kiện đi lại, khi ấy 1 tuần chỉ có một chuyến tàu từ đất liền ra đảo và ngược lại, nếu thời tiết xấu có thể 1 tháng vẫn chưa có chuyến nào. Người ta thường nói nếu nơi nào phát triển phải có đường, điện, trường, trạm…còn tại Thổ Châu khi ấy điện vẫn chưa có, trạm y tế khi ấy chỉ có 1-2 người và rất đơn sơ. Lúc ốm đau mà cần vào đất liền rất khó khăn vì 1 tuần chỉ có 1 chuyến tàu, thế nên cũng mong trời thương để bớt bệnh, còn có thời gian dạy các em.
Một khó khăn khác là ngoài đảo, chỗ ở cho giáo viên không có. Lúc đó thầy cô phải ở tạm trong phòng học. Cơ sở vật chất thiếu thốn trăm bề: thiếu sách vở; bàn ghế không đủ, nhiều bàn quá cao so với học sinh nhỏ; lớp không có bảng nên chúng tôi phải sơn tường để viết.
Học sinh cũng không đi học đều, độ tuổi thì chênh lệch nhau nhiều - có em học lớp 1 nhưng đã 10 tuổi, nhiều em chỉ được học bình dân học vụ do các chú biên phòng tổ chức nên không được lên lớp bình thường, có em học mãi đến ba năm vẫn chưa qua lớp 1. Phụ huynh vì quá nghèo nên suốt ngày chỉ đi mưu sinh, bỏ mặc ít quan tâm các em, lúc ấy dạy học vô cùng vất vả.
PV: Vậy giáo án dạy các em sẽ được cô chuẩn bị trước hay phải linh hoạt như thế nào, thưa cô?
Giáo án ngày xưa tôi viết theo phương pháp mà đã được học ở trường lớp, tuy nhiên khi đến lớp dạy thì sẽ không theo được giáo án đã soạn trước được, vì nếu theo giáo án sẽ khiến các em không hiểu bài. Bởi phần lớn các em học sinh ở đây rất cá biệt, thế nên tôi phải dạy bằng tâm của mình, dạy như thế nào để các em hiểu là được.
Và có một điều đặc biệt, học sinh ở đảo đi học không đều, nên tôi đến tận nhà để yêu cầu các em đi học thì mới biết các cháu phải đi theo cha, mẹ mưu sinh chạy đò, đánh lưới…Thế nên, các em này sẽ không học được ban ngày và muốn nghỉ học.
Thương các em nhưng không đành để các em bỏ học, tôi động viên các em cứ đi làm mưu sinh ban ngày, cố gắng ban đêm đến để cô giảng dạy lại. Cứ thế qua năm tháng tôi và các em vượt qua nạn mù chữ.
PV: Trải qua nhiều khó khăn như thế, có giây phút nào cô đã từng nghĩ rằng sẽ bỏ cuộc quay về đất liền?
Cô đã quyết định ra đây thì dù khó khăn cỡ nào cô cũng sẽ theo đuổi cho đến cùng, để những quãng đời còn lại phục vụ cho các em. Vì đây là một vùng đảo xa xôi phía tận cùng của Tây Nam tổ quốc, giáp Thái Lan. Nếu mình nản bỏ đi, các em ở đây sẽ thiếu giáo viên trầm trọng, đâu ai dám đăng ký ra đây dạy học nhiều đâu, đặc biệt là giáo viên trẻ mà chưa có gia đình thì lại càng không dám ra đây để dạy học.
Cho nên, tôi tự nhủ bản thân bằng mọi giá phải vững lòng, không được nản để phục vụ cho các em hiểu biết, để góp phần gìn giữ những hòn đảo xa xôi rồi từng bước phát triển như ngày hôm nay. Thương lắm người dân ngoài này, họ rất nghèo khó khi sống ngoài đảo xa mà con em họ lại chẳng được học hành thì tất nhiên họ sẽ rời bỏ đảo để đi nơi khác sinh sống. Cũng vì thế nên tôi thấy dù khó khăn gì mình cũng phải khắc phục để phục vụ chữ cho các em ngoài đảo xa.
PV: Cảm ơn cô Kiều vì đã chia sẻ!
Gieo vào tâm hồn trẻ nhỏ tình yêu quê hương, đất nước
Đầu tháng 9, trên vùng biển Tây Nam, sóng lớn từng cơn ồ ạt đập thẳng vào mạn tàu. Những ngày này, áp thấp nhiệt đới có khả năng mạnh lên thành bão số 7 ngoài khơi xa làm cho vùng biển Tây Nam vốn yên bình cũng trở nên dữ dội. Trên con tàu Thổ Châu 09, có những người ngư dân lam lũ, những người lính kiên cường, và cả những thầy cô giáo vừa khép lại kỳ nghỉ hè đang hướng thẳng về đảo. Tất cả cùng chung một hành trình: mang theo sứ mệnh vun đắp, xây dựng cho hòn đảo xa xôi nơi đầu sóng ngọn gió.
Đặc khu Thổ Châu nằm cách bờ Rạch Giá, tỉnh An Giang hơn 200 cây số. Muốn ra được tới đây, phải qua hai chuyến tàu: từ Rạch Giá đi Phú Quốc, rồi từ Phú Quốc tiếp tục vượt sóng ra Thổ Châu – hành trình gần 10 tiếng lênh đênh giữa biển khơi. Hòn đảo xa bờ này vẫn còn thiếu thốn đủ bề. Chính vì vậy, những con người đang bám trụ, gìn giữ và dựng xây cuộc sống nơi đầu sóng ngọn gió ấy, xứng đáng được trân trọng và tôn vinh như một điều thiêng liêng.
Thổ Châu từng mang trong mình những đau thương bởi sự chiếm đóng trái phép của chế độ Pol Pot. Từ một vùng đất cằn cỗi, với vài hộ dân ít ỏi có thể đếm trên đầu ngón tay, hòn đảo đã từng bước hồi sinh sau khi quân và dân ta đánh đuổi Pol Pot. Nhưng trong buổi đầu ấy, cái nghèo và giặc dốt vẫn là hai kẻ thù ám ảnh, khiến người dân không thôi lo sợ.
Mang trên vai sứ mệnh gieo chữ, Thổ Châu đã đón những người thầy, người cô đầu tiên ra đảo, thắp lên hy vọng xóa nạn mù chữ. Trong số ấy, vợ chồng thầy Đào Hữu Quốc và cô Võ Thanh Kiều là những người xung phong đi trước. Thoắt cái, hơn 30 năm đã trôi qua kể từ mùa hè năm 1996.
Nhìn lại quãng đời gắn bó với đảo xa, cô Võ Thanh Kiều không giấu được niềm xúc động và tự hào:
“Ngày ấy ra Thổ Châu không có cảng để tàu cập bến. Lúc đó tàu phải đậu ngoài khơi rồi mình phải xuống một chiếc xuồng nhỏ để đi vào bờ. Rồi từ bờ mà đến trường học là khoảng 4 km. Ngày đó núi cao chập chùng, không có xe máy như bây giờ may mắn thì đi nhờ được xe của mấy chú bộ đội. Ngày đầu ra đảo là không có một đồng dính túi, cũng nhờ được bà con yêu thương cho cá, cho rau ăn qua ngày.”
Ngồi trong lớp học nhìn ra khoảng sân đã được láng xi măng tươm tất, cô Kiều chợt nhớ về những ngày góp nhặt, chắt chiu từng chút thời gian quý báu giảng dạy các em. Bởi khi ấy, Thổ Châu còn hoang hóa, những nhu yếu cơ bản như điện, nước cũng trở nên khan hiếm, còn đời sống của người dân chỉ xoay quanh cơm áo gạo tiền, đặt nặng cái no hơn con chữ.
Cũng vì thế, những buổi đến trường của các em như con sóng chênh vênh, và càng thêm gian nan khi lớp học chỉ là chòi tranh vách lá tạm bợ, mưa thì dột, đêm thì leo lét ánh đèn dầu không đủ soi trang vở.
Rồi khi cái nghèo, cái đói lấn át, nhiều em đành gác lại con chữ và ước mơ để lao vào những buổi mưu sinh cùng gia đình. Trong hoàn cảnh ấy, thầy cô không chỉ là người giảng dạy, mà còn như người cha, như người mẹ hết mực vỗ về, khích lệ để níu giữ học trò đến lớp. Nhờ vậy, những phòng học tạm bợ vẫn sáng đèn, dù là đêm mưa hay những ngày đói. Và rồi, thầy, cô, trò vẫn bền bỉ, ệt mài nuôi dưỡng con chữ qua từng ngày, từng tháng, từng năm:
“Cô thấy mình dạy không hay nhưng cô dạy bằng cái tâm và yêu thương các em. Học sinh cá biệt như thế nào cô vẫn sẽ dạy được. Ở Thổ Châu, đa số dân rất nghèo và họ lo làm việc nên các em ít được quan tâm, chỉ nghĩ là học đến đâu thì hay đến đó. Bởi vậy phần lớn các em học hết lớp 5 là nhà cho nghỉ, thế nên thầy cô phải động viên cho cháu đi học, thiếu gì thì thầy cô quyên góp giúp đỡ. Năm nào cũng thế, cũng phải đến để vận động.”
Không chỉ dạy chữ, cô Kiều cùng các đồng nghiệp còn dạy cho học trò về đạo đức và cách làm người. Thầy cô gieo vào tâm hồn các em tình yêu quê hương, sự quý giá của hòa bình và ý nghĩa thiêng liêng của việc gìn giữ biên cương, non sông đất nước. Cũng vì thế, quỹ thời gian ít ỏi để nghỉ ngơi, cô Kiều lại dành trọn cho học trò qua những buổi ngoại khóa: đưa các em ra cột mốc chủ quyền để hiểu rõ hơn về đất nước, hay cùng lên rừng trồng cây, bảo vệ màu xanh cho không gian biển đảo:
“Đối với học sinh, mình dành nhiều tình cảm yêu thương và giảng dạy giúp cho các em hiểu được sâu sắc tình yêu đất nước, yêu hoà bình. Mình dẫn học sinh được đi đến những nơi đó để giáo dục cho các em hiểu được tầm quan trọng của đảo mình như thế nào, cột mốc chủ quyền ra sao, giáo dục các em hiểu giữ môi trường xanh – sạch – đẹp, trồng thêm cây xanh phủ xanh đồi trọc để đảo ngày càng phát triển.”
Kiên trì, bền bỉ đấu tranh với giặc dốt suốt nửa đời người, những mầm non mà cô Kiều gieo nay đã hóa thành quả ngọt. Những đứa học trò ngày nào giờ đã trưởng thành, trở thành thế hệ giáo viên mới quay về chốn cũ, cùng thầy cô nối tiếp sự nghiệp ‘trồng người’ nơi đảo xa.
Ba mươi năm ròng rã trôi qua như một giấc mơ. Cô giáo Kiều ngày nào nay tóc đã bạc theo năm tháng. Đôi bàn tay chai sần, lam lũ từng cầm phấn viết trên bức tường thay cho bảng; từng ngày thầy cô thay nhau đội mưa, vượt gió, đưa học trò đến lớp, đi thi… Giờ đây, tất cả nỗ lực và hy sinh ấy đã đơm hoa, kết trái, để lại trong cô niềm tự hào khôn xiết.
Cô Kiều tự hào kể lại: “Nhìn lại 30 năm qua cô rất vui và tự hào. Bởi ngày xưa mình ra đây rất khó khăn mà mình vẫn làm được để cho từng lớp trẻ ra trường vững kiến thức, rồi hiện tại có nhiều học sinh quay trở về đảo dạy chung với mình. Thậm chí giờ còn lãnh đạo mình nữa. Đó là điều mà tôi rất tự hào và hãnh diện.”
Ba mươi năm – 1/2 thập lục hoa giáp của đời người. Từ những ngày đầu gian nan nơi đảo xa đến hôm nay Thổ Châu đã vươn mình phát triển, trên con sóng dập dềnh của biển khơi, những người thầy, người cô như cô Võ Thanh Kiều như những ngọn hải đăng, soi sáng cho bao thế hệ học trò, để nơi đầu sóng ngọn gió này vẫn vang lên tiếng đọc bài trong trẻo, vẫn bập bùng niềm tin vào một ngày mai tươi sáng.
Và giữa biển trời mênh mông, Thổ Châu không chỉ có sóng, có gió, có cột mốc chủ quyền thiêng liêng – mà còn có tình người, có tình thầy trò bền bỉ, kiêu hãnh như chính dáng hình Tổ quốc nơi vùng trời Tây Nam.