Cái xứ mà cá đồng quẫy đuôi quanh năm từ mùa khô hạn, qua đợt sa mưa, đến khi bấc trở ngọn, nông dân ền Tây đều có đủ cách dí bắt tài tình. Bắt cá lọt hầm là cách nhàn nhã nhất trong các cách bắt cá, mùa cá nhảy hầm là giai đoạn con cá hoàn thiện phẩm chất thịt ngon nhất trong năm.
Đêm đêm đi thăm cá lọt hầm cũng là ký ức hằn sâu một thuở của những em bé tuổi mới lên 10, cái tuổi ăn chưa no lo chưa tới nhưng đã bắt được con cá to đùng từ những cái khạp vàng khừ hồi đó.
Từ mùa nước nổi đến mùa cá chạy
Vùng đất trù phú nhất Đông Nam Á như ĐBSCL có hẳn câu chuyện chim trời – cá – nước – rau đồng để nói quanh năm vì mùa nào cũng có sản vật. Một năm khởi đầu bằng mùa xuân, khi hạ nêu mùng 7 là tiết trời bắt đầu vô hạ, dưới sông hến non dần dần cứng vỏ, nông dân khắp nơi thả rộ cá giống rô phi. Qua tháng 4, cá cơm sông rộ lưới, hết tháng 5 là thấy nước lên đồng.
Nước lên thì tha hồ đánh bắt bắt cá linh, cá dãnh, cá chạch, cá gầm; điên điển trổ bông, súng ma vươn đọt, hẹ nước tươi xanh. Cho đến khi cuối tháng 10, gió chướng chớm về đã thấy đậu rồng trổ bông, mía già ngọt nước, vú sữa chín cây và cá đồng bỏ ruộng trở về sông. Cái mùa gió chướng là mùa thu hoạch, trăm cây đậu trái, trăm loài kiếm chỗ trú thân và cũng là mùa mà nông dân trúng đậm cá ngon kéo dài cho đến Tết bằng phương pháp đào hầm.
Đào hầm bắt cá là cách mà nông dân tự sáng tạo từ thời ngư cụ lú – lưới chưa thịnh thành, phương pháp này được ứng dụng nhiều ở vùng “rốn cá” U Minh, Thới Bình (Cà Mau), Miệt Thứ (Kiên Giang cũ). Đào hầm được áp dụng vào đầu mùa sa mưa (mùa cá lên) và cuối mùa mưa - đầu mùa khô (mùa cá chạy), nhưng đa phần nông dân đều chọn bẫy ở mùa cá chạy nhiều hơn vì thời điểm này con cá béo mập nhất trong năm.
Ông Dư Tấn Anh (85 tuổi) – ngụ xã Nguyễn Phích, tỉnh Cà Mau cho biết “chiêu” bắt cá bách phát bách trúng ở đồng đất Cà Mau một thời: “Cá sinh sôi mênh mông ngoài đồng tới mùa hạn cái nó gom về ao đìa, trong vườn thì cá sống trong ao chờ tới mùa mưa để đi ra ngoài đẻ trứng. Mình coi đường nào mà nó đi, đào lỗ, nhận cái lu xuống, nó đi là tự động lọt xuống. Mỗi bữa mỗi thăm, sáng nào đi đổ hầm cũng dính cá lớn loại 1-2 kg/con. Bây giờ mùa mưa cá đi tùm lum hết rồi, mà nếu trên đường “tha phương” này mà nó không bị bắt là tới mùa hạn nó sẽ quay về, nhiều nhất là cá trê, cá lóc và cá rô. Canh mỗi lần tới mùa nó đi nhưu thế là mình dùng cách đào hầm để bắt”.
Đầu tháng 11 âm lịch, gió chướng se lạnh đã báo hiệu cắt đứt mùa mưa, nước trên ruộng bắt đầu cạn nhanh do chảy theo các lổ mội xuống sông, rạch, ao đìa. Con cá theo đó cũng quay ngược về sông để sinh sống qua mùa khô khắc nghiệt, với tập tính sinh tồn này, trong tất cả các cách dí bắt bằng ngư cụ thì chỉ có đào hầm là cái bẫy hoàn hảo nhất.
Đào hầm thì ai cũng làm được nhưng để dụ cá nhảy vào thì cần phải có bí quyết. Dấu hiệu nhận biết đồng nào có nhiều cá là vào buổi chiều, nơi đây có tiếng cá “ăn móng” hoặc chạy gợn nước rồi vô cớ nhảy tung lên. Nông dân sẽ chọn vị trí đặt hầm nằm ngay đường đi của cá, “êm” nhất thường là những họng ao, đường nước thông từ ao này qua ao kia hoặc đường mương thông từ ao ra kênh, mương vườn, ruộng. Con đường này phải còn ẩm ẩm để cá trườn lóc dễ dàng.
Giữa đường nước từ các thửa ruộng chảy ra sông rạch, người ta đào đất lên rồi nhận một cái khạp xuống và phủ một lớp sình non lên bờ hầm. Sình non này phải được lấy từ bãi sông – một bí quyết thượng thặng để dụ cá thành công. Dựa theo quy luật tự nhiên, cá tìm đường trở ra sông rạch mà đụng bờ hầm có mùi sình non là chúng ngỡ cái mùi của bờ bãi sông rạch rồi nhắm mắt nhảy. Nếu bờ hầm thêm lớp sình non có mùi phù sa bồi lắng thì cá càng chắc chắn đó là nơi chúng tìm về nên đua nhau phóng cho lẹ.
Cái hầm đã gài cố định được phủ một lớp ngụy trang bằng lá dừa, trong hầm khô cạn vì nếu có nước lỏng bỏng cá sẽ có trớn phóng ngược trở ra. Khuya lạnh cá bắt đầu tìm đường đi, nghe mùi sình và hơi nước chúng cố ết vừa lóc vừa phóng…ra sông, nhưng cuối cùng lại lọt vô hầm. Thành hầm cao nên chúng không thoát thân được, con này lọt trước quậy động, con khác nghe tiếng “rọt rẹt” cũng lóc tới để hội tụ “đồng hương”, cuối cùng anh em nhà cá đều sa vào bẫy. Với phương pháp này, một thời “rốn cá” Thới Bình, U Minh và Miệt Thứ bắt cá đồng mệt nghỉ.
Ông Trần Thanh Sang, ngụ xã U Minh Thượng, tỉnh An Giang ( trước đây là xã Minh Thuận, huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang cũ) hồi tưởng: “Mình đi theo các đường mương có rãnh nước chảy, đào lỗ rồi nhận khạp, cá nó trườn tới là lọt vô hầm. Cá nhảy hầm thì đủ loại từ cá lóc, cá trê và lươn. Mỗi đêm đi thăm có hầm đầy cá nhưng cũng có hầm chỉ vài con thôi”.
Qua con mắt nhà nghề của những người đào hầm bắt cá thì đây là cuộc tỉ thí của những con cá lóc khỏe và những con cá rô có sức trườn dẻo dai. Cá lọt hầm cũng khá đa dạng, nào là: cá lóc, cá trê, cá rô, cá dày, rắn nước, rắn ri voi, rắn ri cóc. Nhưng thường thấy nhất là cá lóc và cá rô. Cá lóc là “bậc thầy” mau lẹ và rắn rỏi của nhóm cá đen, có tập tính uốn cong thân mình lách qua tay mặt rồi ẹo qua tay trái thật nhanh, dùng đầu và đuôi đập xuống đất để lấy trớn trườn tới.
Cá lóc chẳng những lóc trên mặt đất mà còn có thể nhảy qua một chướng ngại vật như bờ đất hay bờ mẫu khỏe re. Còn cá rô thì được mệnh danh là “đệ nhất” trườn mà thường thích trườn ngược dòng nước một cách mau lẹ. Sở trường này của chúng bị con người “nắm thóp” nên đào hầm để tóm gọn cả đàn.
Bẫy cá mùa gió chướng
Không có cái thú bắt cá nào mà khoẻ, mà thích, lại quá vui cho bằng đêm khuya đốt đuốc đi thăm hầm. Nhìn đường hầm còn trơn láng dấu cá mà mừng rơn trong bụng, dỡ tàu lá dừa lên đã thấy chị em nhà cá mướt rượt nằm gọn trong hầm, ai cũng phải reo lên vì quá phấn khích. Một em bé thơ ngây mới 10 tuổi đầu đã biết cùng cha ra đồng, tóm cổ con cá to đùng bỏ vô giỏ đem về cho mẹ. Con cá bắt lên giãy đành đạch, vừa sạch vừa khoẻ, rộng được 5-7 ngày cho bữa ăn ngon.
Bắt cá xong thì vét lại ệng hầm, nếu có nước vô thì tát cạn rồi chờ cho cá nhảy tiếp, một hầm có thể bắt cá tới năm ba ngày. Đào hầm - nhận khạp bắt cá tính ra là cách bắt cá an nhàn, không cần phải tốn công kiên nhẫn kiếm mồi cho nhạy, không cần ngồi phơi nắng chờ cá cắn câu, càng không cần lội sình bùn lún tới đùi để mò mẵm. “Tài tử” vậy đó mà kết quả cũng không hề tệ.
Ông Dư Tấn Anh – ngụ xã Nguyễn Phích êu tả chất lượng thịt của con cá nhảy hầm mùa gió chướng: “Bắt cái kiểu này dễ ăn lắm, khỏi cần lờ hay lọp gì hết. Mùa mưa nó đi kiếm ăn nên mập lắm, tới hạn trở về đìa mà bắt được lúc đó là ngon lắm. Còn con cá nào nó sống suốt một mùa hạn trong ao thì không đủ thức ăn nên nó ốm nhom à, mưa xuống, cá rô nó trườn lên xối xả thấy ham vậy chứ bắt vô nó ốm lắm”.
Con cá nhảy hầm mùa gió chướng là con cá ngon nhất trong năm vì nó được dưỡng nuôi trong suốt mùa mưa béo ú trên đồng. Mùa cá nhảy hầm lại trùng với lúc so đũa trổ bông, rau đắng đất vươn lên tươi tốt nên bữa cơm trong mùa cá nhảy hầm là bữa cơm ngon nhất ở đồng đất quê nghèo. “Rau đắng nấu với cá trê/Ai đi lục tỉnh thì mê không về”, con cá trê của ền Tây chỉ ngon tuyệt vời khi nấu canh với rau đắng đất, một tô canh ngọt mát chữa mỏi gối, đau lưng mà bậc cao niên của xứ sở đồng bằng ai cũng thích.
Một con cá lóc ních ních kho tiêu rưới mỡ bóng lưỡng, quẹt trái đậu rồng cắn giòn bụp bụp. Một mớ cá rô đồng ôm đầy mỡ bụng nấu nồi canh chua cơm mẻ với bông so đũa trắng tinh. Bữa cơm đầy dinh dưỡng với cá nước – rau đồng bên chái bếp mùa cá nhảy hầm nuôi lớn nhiều gia đình đi qua tháng năm nghèo khó.
Mỗi mùa gió chướng đi qua, tụi con nít lại lớn thêm một chút, những đêm thức giấc giữa chừng cầm đuốc đi thăm hầm từ từ đi vào dĩ vãng. Bây giờ đồng ruộng bị thu hẹp dần, đất ruộng bón nhiều phân hóa học nên diệt luôn cả nguồn cá tôm, đâu còn cảnh cá lóc trườn theo đàn trên cạn để “té hầm” như ngày xưa nữa. Với lại ngày nay, ngư cụ cũng đã đa dạng hơn nhiều, đủ loại để bắt cá, tôm nên cái khạp một thời nhận hầm cũng quay về dùng cho ủ mắm, đựng muối, đựng gạo. Trẻ con thôn quê không còn thú vui đào hầm cho cá nhảy rộ của thời ấu thơ nữa.
Ngày nay ở vùng “rốn cá” Cà Mau, các thế hệ kế thừa đã sáng tạo ra nhiều cách bắt cá hữu dụng. Bắt cá mùa hạn bằng cách đào hầm đã đi vào dĩ vãng, thay vào đó, nông dân cùng nhau kéo lưới, chụp đìa, tát đìa. Một lần tát đìa thì cá, tôm bội thu lên đến cả tấn. Cách đánh bắt trên sông rạch thì đa dạng và phong phú hơn, như: giăng câu, đóng đáy, xây nò, đặt đó, đặt lú, đặt vó.
Ở kinh mương thì đặt lọp - đặt lờ, thấy vậy chứ dính nhiều tôm càng, cua, rùa, cá trắng. Nhiều người được mệnh danh là “thầy nò” vì khả năng xây nò trên sông rạch đạt đến trình độ “bậc thầy”, hiểu được quy luật đi lại cũng như luồng lạch di chuyển theo bầy đàn của các loài tôm cá dưới sông, mỗi lần đặt nò là thu hoạch được nhiều cá hơn người khác.
Ông Đinh Văn Út – ngụ ấp Trùm Thuật, xã Khánh Hưng, tỉnh Cà Mau cho biết, dù bà con có đủ cách bắt được cá nhưng đến nay vẫn còn giữ được “đạo bắt cá của ông bà” để lại, đó là điều rất đáng mừng: “Trước đây có người tát đìa, rồi dùng xiệt điện kích để bắt cá cho dễ nhưng làm cho cá chết hết, rồi cứ vậy nguồn lợi giảm dần. Từ hồi có quy định cấm dùng xiệt điện, bà con làm thủ công. Giờ thì chụp đìa, lựa mấy con lớn bắt, mấy con nhỏ thả lại cho mùa sau”.
Tri thức dân gian về đánh bắt thuỷ sản của các thế hệ dân cư dân ở ền Tây được hình thành và phát triển qua hàng trăm năm, những kinh nghiệm này đã giúp cư dân càng nâng cao “tay nghề” về đánh bắt thuỷ sản. Chỉ tiếc là một số kinh nghiệm đã bị hẹp dần đất “dụng võ”, ví dụ như phương pháp đào hầm.
Dẫu biết rằng mọi thứ trong cuộc sống sẽ vận động, tiến hóa theo sự phát triển của xã hội nhưng mỗi khi nhắc về đồng xưa lại quá nhớ nhung mùa cá cũ, mùa cá mà anh em không ngủ để đi soi đuốc thăm hầm, mùa cá nh mông bắt hoài không hết, con cá núc ních thịt mềm nấu canh cùng rau đắng đất!