Chẳng sợ thứ gì, con người đến đây mở đất để sống tự do giữa thiên nhiên dữ dội. Trong số nhiều vùng đón dân xa xứ, có ệt Cạnh Đền nằm ở phía Đông Nam rừng U Minh Thượng. Cạnh Đền có nhiều chết danh, như: đồng chó ngáp, xứ cầm trâu, … tên nào cũng nghe buồn đứt ruột.
Vậy đó, mà Cạnh Đền đã vươn lên, trở thành vùng đất khởi đầu cho mô hình lúa – tôm nổi tiếng và là biểu tượng về nơi thử thách ý chí khai hoang, chan chứa nghĩa tình.
Huyền tích Cạnh Đền: Đất dữ hóa lành
Xứ đâu như xứ Cạnh Đền
Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lềnh tựa bánh canh
Tương truyền vào khoảng cuối thế kỷ 18, chúa Nguyễn Ánh bôn tẩu dừng chân ở đây, trong số cung quyến cùng ngài lưu lạc có công chúa Ngọc Hạnh. Vì không quen phong sương, công chúa lâm bệnh nặng qua đời, được phụ vương an táng và dựng đền thờ. Thế hệ đầu tiên đến đây lập nghiệp đều chọn cất nhà cạnh ngôi đền để mong được phù trợ, dần dà, địa danh Cạnh Đền hình thành.
Cạnh Đền là vùng đất rộng lớn thuộc địa phận hai tỉnh Kiên Giang (cũ) và Bạc Liêu (cũ), trung tâm gắn với huyền tích “xứ Cạnh Đền” nằm trọn trong địa giới hành chính xã Vĩnh Phong (huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang cũ), nay là xã Vĩnh Phong (tỉnh An Giang) với 05 ấp: Cạnh Đền 1, Cạnh Đền 2, Cạnh Đền 3, Căn Cứ và Thị Mỹ.
Thuở khai hoang, Cạnh Đền “thâm sơn cùng cốc” có hẳn một dãy rừng xanh che phủ lung bàu. Cỏ cây đua nhau ưỡn mình giành lấy ánh sáng, lau sậy mọc xen kẽ với cánh rừng tràm nguyên sinh bị “cầm tù” trong vùng đất tối tăm.
Xa thiệt là xa, người ta mới tìm thấy một mái lá nhỏ chấp chới giữa cơ man ruộng đồng hoang hóa, năn bộp - năn kim ngập ngụa trong mặt nước vàng lự váng phèn. Ngày nắng mùi phèn hăng hắc, ngày mưa phèn xì lên mặt đất chua lè. Ngày này tháng nọ sống trên đồng bưng nhiều đỉa vắt, lưu dân cắm sào ở đây khái niệm được tên gọi của mình, đó là Nghèo!
Ông Nguyễn Hoàng Cư (70 tuổi), ngụ ấp Căn Cứ, xã Vĩnh Phong, tỉnh An Giang hồi tưởng: “Có xứ nào vui bằng xứ Cạnh Đền,… là câu nói của ông bà xưa, vui là ngụ ý nói muỗi kêu vui như sáo thổi. Hồi đó, con đỉa hút máu no bụng to bự như con rắn trun. Con đỉa bắt đầu cắn từ cái rốn, tới khi nó no là nó dài ra ôm giáp cái bụng của tôi luôn. Mình xuống sông rửa cái gì, động nước là đỉa nó tụ hội lại một lượt 5-7 con, nhìn thấy rõ luôn."
Để trút bỏ cái tên Nghèo, dân Cạnh Đền hun đúc tinh thần thủy chung với đất, chấp nhận thân phận tôi tớ để sống và để có “vốn liếng” cho cuộc làm chủ sau này. Khi thực dân Pháp khai thác hết diện tích cây tràm, bỏ lại Cạnh Đền hoang tàn thì người giàu mới bắt đầu mua trâu chăn thả rồi mướn dân nghèo canh giữ.
Có những gia đình ở Cạnh Đền mà hết thảy mấy anh em đều đi ở đợ: người thì nấu cơm, người giữ nhà cho chủ, người ra ruộng cắt lúa, người phơi nắng len trâu. Từ những buổi trưa vắt vẻo trên mình trâu mộng, những em bé ngây thơ tóc còn để chỏm ở Cạnh Đền đã được giác ngộ cách mạng rồi hết lòng vì cách mạng theo cách rất thông nh.
Ông Võ Thanh Xuân – nguyên Trưởng ban Tuyên giáo Huyện ủy Vĩnh Thuận (cũ) cho biết: “Những người giữ trâu ngoài ruộng khi thấy địch đến thì các chú lấy khăn rằn cột lên sừng con trâu rồi lùa chúng chạy nhốn nháo trên đồng, những người trong căn cứ đang họp nhìn là biết có động. Chỉ là một em bé chăn trâu nhưng được giáo dục từ xứ căn cứ Cạnh Đền truyền thống nên họ yêu cách mạng, họ làm mọi cách báo động để lãnh đạo cách mạng bảo toàn lực lượng đến giờ phút giải phóng”.
Từ “xứ Nghèo” thành vựa tôm – lúa trù phú
Sau năm 1975, đời sống người dân Cạnh Đền vẫn còn rất khó khăn đến nỗi ba người hùn lúa lại mới đổi được một cái quần. Ruộng đất thì mặn và phèn chế ngự nên canh tác chỉ được vài giạ lúa/công.
Khổ thân nhất đối với người dân Cạnh Đền là phần lớn đều mù chữ vì trải qua chiến tranh khó có điều kiện học hành. Xác định “khai hoang” Cạnh Đền – Vĩnh Thuận phải bắt đầu từ khâu “khai trí”, năm 1986, lãnh đạo Phòng Giáo dục huyện Vĩnh Thuận (cũ) đã lặn lội qua Tiền Giang rước lực lượng trí thức về diệt “giặc dốt” cho toàn huyện Vĩnh Thuận.
Khi đó, thầy/cô chấp nhận khăn khói vượt hàng trăm cây số về chốn “đỉa lội” hành nghề. Đợt 1, vào năm 1987 có 77 giáo viên; đợt 2, năm 1988 có thêm 58 giáo viên; đợt 3, năm 1990 có 33 giáo viên. Chẳng mấy chốc, dân trí ở Cạnh Đền được nâng lên rõ rệt, ngành giáo dục Vĩnh Thuận bắt kịp tiến độ với nhiều địa phương khác trong vùng. Từ sự dạy dỗ tận tâm này đã có những thế hệ học sinh giỏi, tốt và thành danh trong xã hội.
Ông Võ Thanh Xuân – nguyên Trưởng ban Tuyên giáo Huyện ủy Vĩnh Thuận (cũ) kể: “Giai đoạn đầu về đây dạy học không có gạo ăn, phụ huynh đưa gạo cho con mang đến tặng giáo viên kèm theo củi khô để nấu cơm. Có cá cũng mang cho thầy/cô, nhà có đám tiệc là rước thầy/cô về nhà mình ăn. Lực lượng trí thức năm xưa về Cạnh Đền – Vĩnh Thuận này và bám trụ đếm hôm nay phần lớn đều trở thành Hiệu trưởng, Hiệu phó hết rồi”.
Dân trí đã ổn, bắt đầu công cuộc thuần hóa thiên nhiên, giai đoạn 1990 – 1995, vùng này triển khai chủ trương ngọt hóa bán đảo Cà Mau do cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt chỉ đạo. Kênh Dân Quân, kênh xáng Phó Sinh - Cạnh Đền, kênh Bạch Ngưu được khơi thông, cánh mục đồng năm xưa manh nha mang tôm sú giống về nuôi, ai ngờ thành công vang dội. Ký ức không thể nào quên của người dân Cạnh Đền – Vĩnh Thuận là một đêm đặt tôm sú bán được 25 triệu đồng, trong khi vàng chỉ có 600 ngàn đồng/chỉ.
Trúng đậm mùa màng, những năm 2000, dân Cạnh Đền đã cất được nhà lầu, rồi đua nhau mua thêm đất đai. Hiện nay, xứ này ai ít đất nhất cũng 2 hecta, ai nhiều đất nhất cũng 20 hecta, cò bay thẳng cánh.
Thấy hiệu quả kinh tế, đến năm 2010 địa phương cho chuyển dịch phần lớn đất thịt chuyên canh lúa sang tôm – lúa, từ đó mô hình con tôm ôm cây lúa; lúa - cá- tôm; lúa – cua – tôm ra đời. Nông dân tăng cường canh tác 3 vụ ( 2 vụ tôm, 1 vụ lúa), đất không phụ lòng người, lúa xứ này cho năng suất 7 – 9 tấn/hecta, Cạnh Đền – Vĩnh Thuận trở thành địa phương tiêu biểu canh tác nông nghiệp cho kinh tế cao ở vùng ĐBSCL.
Ông Cô Văn Sữa, Trưởng ấp Căn Cứ, xã Vĩnh Phong, tỉnh An Giang hồ hởi mời chào: “Từ khi có con tôm là dân ở đây phát triển rõ rệt qua từng năm. Cua nuôi chung với tôm, đặt lú tôm mà cua bò vô thì bắt bán thôi. Còn cá thiên nhiên thì có rô phi, tôi mới thu hoạch được 1 tấn cá phi thiên nhiên đó. Cạnh Đền trước đây khắc nghiệt, nắng thì khô cằn, mưa thì đỉa vắt đầy, đi lại cũng khó khăn mà giờ thì dồi giàu tôm cá rồi. Tôm – cua – cá có sẵn, chỉ mỗi việc ăn thịt heo thì tốn tiền ra chợ mua thôi chứ hà tiện thì cứ bắt cá lên mà ăn, rất sạch. Ai về Cạnh Đền thì có tôm – cua – cá ăn thoải mái”.
Cũng từ năm 2000, chương trình về điện, thủy lợi và sau này là xây dựng nông thôn mới… đã giúp Cạnh Đền đổi thay, không còn “dị hợm” mà trở thành nơi sung túc ở xã vùng sâu. Đã vậy, hiện có 2 tuyến đường huyết mạch đang xây dựng đi qua xã Vĩnh Phong, gồm: cao tốc Cần Thơ – Cà Mau và đường Hồ Chí Minh, hạ tầng này hứa hẹn kết nối Cạnh Đền xa xôi trắc trở hôm nào thêm gần hơn với thành phố lớn.
Ông Võ Thanh Xuân – nguyên Trưởng ban Tuyên giáo Huyện ủy Vĩnh Thuận (cũ) cho biết: “Khi có những tuyến vận tải thì đặc sản của Cạnh Đền sẽ vô được nhà hàng sớm hơn. Nếu trước đây phải mất 2 ngày thì bây giờ cần là chỉ mất vài tiếng đồng hồ, thực khách ở thành phố lớn có thể ăn được con tôm – cua tươi sống, bó năn, đọt choại của Cạnh Đền. Mà bán đồ tươi sống ngon ngọt như vậy, nông dân sẽ bán được với giá cao”.
Cạnh Đền là biểu tượng về nơi thách thức ý chí khai hoang của lưu dân Nam tiến. Vùng xa xôi khắc nghiệt này đã có một thế kỷ chứng kiến đức tính biền bỉ, chịu thương – chịu khó của nhiều thế hệ nông dân. Dù đói ăn, thiếu mặc nhưng một tất đất cũng không rời, chịu khó học tập kinh nghiệm rồi mạnh dạn đem con tôm về nuôi trên đồng đất quê mình.
Hôm nay Cạnh Đền vang danh là địa phương chuyên canh tôm – lúa chất lượng của vùng, thành tựu này có công đóng góp rất lớn từ Nhân dân.
Ngày nay Cạnh Đền không còn đỉa lội nữa, nhưng mỗi khi nghe lại câu hát “Em theo anh về xứ Cạnh Đền” bỗng nhiên trong ta lại thấy vô cùng ngưỡng mộ. Em đó chính là người bà, người mẹ của mình đã rời xứ theo chồng về Cạnh Đền làm dâu, làm vợ.
Dù khắc nghiệt, lạ nước lạ cái, các mẹ vẫn thủy chung son sắc, cáng đáng chuyện trong ngoài để dưỡng nuôi khôn lớn đàn con ở xứ sở Cạnh Đền hôm nay.