Từ những chuyến xuồng chở nặng lúa bơi qua sông rạch, đến cảnh đội từng giạ lúa trên vai đi bộ đến nhà máy, tất cả đã trở thành ký ức in đậm trong ký ức nhiều người quê.
Ký ức một thời nhọc nhằn và ấm áp
Không ai còn nhớ rõ thời gian cụ thể về sự ra đời của nghề chà gạo hay ở một số nơi của ền Tây gọi là nghề chà lúa. Theo những bậc cao niên, vào những năm 80, 90, trước khi xuất hiện máy chà lúa hiện đại như ngày nay, trong mỗi gia đình thường có những chiếc bồ lớn bằng mê bồ.
Mỗi bồ có thể chứa hàng trăm giạ lúa, trở thành nơi dự trữ sau mỗi mùa thu hoạch, vừa để bán, vừa để chà thành gạo nấu ăn hàng ngày. Nhà nào có bồ lúa đầy đến tận nóc thường được xem là khá giả.
Đi chà lúa thuở ấy là công việc quen thuộc, gắn bó với đời sống hàng ngày của bà con vùng quê nhưng nay đã trở thành ký ức. Bà Lê Thị Huệ, một người dân ở tỉnh Vĩnh Long, bồi hồi nhớ lại: "Hồi đó một số người người ta làm ruộng còn người nào không có ruộng thì người ta đi kinh cắt lúa. Người ta chở về rồi đi chà. Có người nhà máy cách sông thì bơi xuồng đi, còn đường lộ thì đội bộ, ai có xe thì dẫn xe. Mà đâu có ai đội đâu có nổi, đội chừng 1 giạ, 1 giạ mấy thôi rồi ăn hết thì đi chà nữa chứ đâu có đội nhiều. Đi đường lộ đội không chứ đâu có xe đâu mà dẫn. Hồi xưa chứ đâu phải như bây giờ đâu, chừng 5-7 nhà mới có 1 chiếc là quý dữ lắm rồi, chứ không phải như bây giờ. Nhà máy thì cũng thưa thớt chứ cũng không có nhiều."
Theo lời bà Huệ, những năm tháng ấy, cuộc sống ở ền quê gắn chặt với ruộng đồng. Nhà máy chà lúa hoạt động quanh năm nhưng nhộn nhịp nhất là mùa cắt lúa và giáp Tết. Vào mùa cắt lúa, người dân thường đem lúa đến những lò chà nhỏ gần nhà vừa tiện đường vừa đỡ mất công chờ đợi. Còn những hộ buôn bán hoặc có nhu cầu nhiều thì tìm đến các nhà máy lớn, công suất mạnh hơn.
Mùa nước nổi, cảnh đi chà gạo lại càng đặc biệt, người ta chèo xuồng len lỏi qua từng con rạch, chở từng bao lúa từ ruộng về rồi chà thành gạo để dành. Máy móc thì ít nhu cầu lại nhiều nên nhà máy phải chạy liên tục vẫn không xuể. Có khi hết gạo ăn, đem lúa tới vẫn phải ngồi chờ thậm chí mượn hàng xóm vài lon gạo ăn đỡ. Trong lúc đợi, mấy bà, mấy chị lại rôm rả chuyện mùa màng, chuyện xóm làng, thậm chí chuyện cưới hỏi.
Không ít mối tình nên nghĩa vợ chồng bắt đầu từ những buổi chờ chà lúa giản dị mà ấm áp tình quê: "Nhà máy thì gần sông đặng cho hàng xáo đi xuồng cho tiện, dễ, bến sông đồ đó. Còn như mình chà ăn, ít ít thì mình đội bộ, ai có xe thì dẫn xe. Mình chà ăn thì mình đi nhỏ nhỏ, hàng xáo thì người ta chà nhiều mình đâu có chờ đợi được. Mùa nào cũng có hết trơn. Ai có ruộng thì người ta mần lúa người ta trữ, còn ai không có ruộng thì đi kinh về trữ đó, ăn hết gạo thì đi chà. Mỗi lần đi là rủ ở xóm, coi người nào đi đặng mình đi 2-3 người cho vui. Một giạ lúa chà lẹ lắm mà có một cái thí dụ mình lên đó có khách thì phải chờ."
Hạt gạo quê hương và những ký ức không thể nào quên
Tiếng máy chà ồn ào hòa cùng mùi trấu, mùi gạo mới quyện trong gió như đem theo cả niềm vui của người quê. Hồi đó, đứa con nít nào cũng thích theo người lớn đi nhà máy chà lúa, phần để phụ giúp, phần để nô đùa cùng đống trấu chất cao. Với những người làm nghề hàng xáo, số lượng lúa đem chà thường lớn.
Gạo bán phải trắng, hạt bóng để khách không chê.
Hồi đó, nhà nào có sẵn lúa để chà ăn được xem là khá giả, bữa cơm thường rộng rãi hơn, nấu dư để lúc có khách thì đãi ngay. Giáp Tết, các nhà máy lại đông nghẹt. Người người chở lúa đi chà, chen chúc chờ tới lượt. Ai nấy đều sốt ruột, mong sớm tới phần mình.
Bà Huệ kể tiếp: "Đổ lúa vô rồi nó ra gạo lức. Gạo lức rồi nó tẩy xuống ra gạo trắng, cám. Trấu thì nó phóng ra đằng sau. Gạo thì ra một chỗ, cám ra một chỗ. Một giạ lúa 20 kg mà gạo đặng chắc cũng được 17-18 lít gạo. Đi chà về phải có cái sàng. Có thóc mình phải sàng ra, lựa rồi mới vô khạp, để dành xúc từng lon nấu ăn. Gạo bây giờ thì nó ngon hơn hồi xưa dữ lắm. Hồi đó cái gì cũng vậy, chà gạo về nhiều khi có trấu càng, phải sảy ra nữa."
Hột gạo mới chà còn nóng hổi, thơm mùi cám. Đi chà lúa, ngoài gạo còn có trấu, tấm, cám. Trấu làm chất đốt, tấm và cám để nuôi heo, gà hoặc ủ rượu, chẳng gì bỏ phí.
Ngày nay, tiếng máy chà lúa đã dần vắng bóng nhường chỗ cho những dây chuyền xay xát hiện đại và cách mua gạo tiện lợi nơi cửa hàng, siêu thị. Thế nhưng, với nhiều người dân ền Tây, nhất là những bậc cao niên, ký ức về những ngày đội lúa đi chà, chờ đợi bên bến sông hay rộn ràng câu chuyện xóm giềng bên đống trấu vẫn còn nguyên vẹn.
Nghề chà lúa không chỉ tạo ra hạt gạo nuôi sống bao thế hệ mà còn là một phần ký ức chung, lưu giữ hồn quê, tình làng nghĩa xóm của một thời đã xa.