Khu di tích Mo So vừa là chứng tích lịch sử sống động, vừa là tuyệt tác thiên nhiên kỳ vĩ. Dưới những hang đá trầm mặc, biết bao câu chuyện về lòng quả cảm, về sự hy sinh của thế hệ cha ông vẫn cuộn chảy theo dòng thời gian.
Vẻ đẹp và dấu tích lịch sử
Đến núi Mo So, xã Kiên Lương, tỉnh An Giang vào một ngày đầu tháng 8, cơn mưa rào bất chợt như làm dịu đi cái nắng oi ả. Từ xa, Mo So hiện lên hùng vĩ giữa vùng bán sơn địa.
Con đường dẫn vào khu di tích rợp bóng hai hàng cây, mang lại cảm giác mát lành và khiến du khách không khỏi háo hức khám phá.
Không chỉ là thắng cảnh độc đáo, Mo So còn từng là căn cứ chiến lược của lực lượng cách mạng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Những trận đánh ác liệt, mưa bom bão đạn từng diễn ra nơi đây. Vậy mà, qua bao năm tháng, ngọn núi vẫn sừng sững giữa trời xanh như một chứng nhân sống động cho tinh thần kiên cường bảo vệ vùng đất phương Nam Tổ quốc.
Gặp anh Trần Văn Tồn – cán bộ Trung tâm Văn hóa, Thể thao và Truyền thanh xã Kiên Lương. Hơn 20 năm gắn bó với núi Mo So, anh là người hiểu tường tận từng vách đá, ngóc ngách hang động và cả những dấu tích một thời kháng chiến oanh liệt.
Dẫn chúng tôi len lỏi qua những lối nhỏ trong dãy hang động, anh Tồn dừng lại trước một vách đá sẫm màu rồi đưa tay chỉ lên cao. Trên nền đá xám xịt là dấu tích bom đạn từ những trận đánh ác liệt năm xưa. Anh Tồn cho biết, những vị trí này rất dễ nhận ra, bởi sau hàng chục năm, rong rêu cũng không thể phủ, cây cối không thể bén rễ.
Như thể đất đá nơi đây muốn lưu giữ những ký ức thời kháng chiến và như một lời nhắc nhở thầm lặng gửi đến con cháu mai sau.
“Thời điểm đó, chiến sự ở Mo So diễn ra rất ác liệt. Trên không, quân xâm lược thả dầu xuống và đốt cháy toàn bộ khu vực.
Trực thăng liên tục trút bom, còn dưới đất, súng cối và xe tăng bắn phá từ ba đến bốn hướng cùng lúc. Những nơi từng bị bom đạn đánh phá, giờ không có một vết rong rêu nào bám được. Đá ở Mo So vốn là đá vôi, chỗ nào không bị phá hủy thì sẽ có màu trắng nhạt, lâu ngày còn hình thành thạch nhũ. Nhưng những nơi trúng bom, không chỉ không trắng mà còn không bao giờ mọc được gì nữa”, anh Trần Văn Tồn chia sẻ.
Núi Mo So có khoảng hơn 20 hang lớn nhỏ và các hang gắn với tên của một đơn vị cách mạng trong kháng chiến như: Hang Huyện Đội, hang Quân Y, hang Kinh Tài, hang Điện Đài, hang Nước…
Chúng tôi theo chân anh Tồn tiến sâu vào lòng núi Mo So. Con đường hẹp, ẩm và tối, chỉ đủ cho một người luồn qua. Những vách đá lởm chởm, lạnh và sần sùi. Ánh đèn pin lướt qua chỉ thấy một màu xám đục kéo dài hun hút. Cứ thế, chúng tôi mon men lần theo những lối nhỏ trong hang đá để đến hang Quân Y. Không gian dần được mở rộng ra, trần hang cao hơn, thoáng hơn.
Anh Tồn cho biết, hang Quân Y có diện tích lớn nhất. Nơi đây từng là trạm cứu thương dã chiến, đủ chỗ để chăm sóc và phục hồi sức khỏe cho hàng nghìn chiến sĩ bị thương trong chiến đấu. Nhờ vị trí kín đáo, an toàn và thông gió tốt, hang Quân Y được xem là nơi giữ lại sự sống cho nhiều người giữa chiến trường khốc liệt: “Cả chiến trường Tây Nam Bộ và tuyến đường 1C khi bộ đội bị thương sẽ chuyển về đây hết. Khi ấy, bác sĩ Hùng là người trực tiếp phụ trách điều trị cho nhiều cán bộ, chiến sĩ tại đây.
Sau giải phóng, bác sĩ Hùng trở về quê và qua đời nhưng không ai biết ông sống ở đâu. Để tưởng nhớ người bác sĩ, các cô chú ngày xưa đã lập bàn thờ ngay tại hang Quân Y này”.
Len lỏi qua lối đá hẹp, ánh đèn pin dẫn lối đưa chúng tôi tới hang Hai Vòi Rồng, nơi đây có hai khối thạch nhũ khổng lồ lấp lánh ánh và ẩm ướt. Những khối thạch nhũ này có hình thù uốn lượn, tạo điểm nhấn đặc biệt khiến du khách đi qua không thể không ngước nhìn, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp kỳ vĩ của tự nhiên.
Theo anh Tồn, Mo So được hình thành cách đây khoảng 240 triệu năm. Những khối đá, những hang sâu trong lòng núi đều là kết quả của sự tạo hóa tự nhiên qua hàng triệu năm. Phía chân núi và trong các hang động, dấu vết bào mòn vẫn còn hằn rõ với thời gian, đây là dấu tích của những đợt nước biển từng xâm lấn, được các nhà khảo cổ đánh giá khoảng 4.000 đến 5.000 năm trước Công nguyên: “Núi Mo So có khoảng 20 hang động, trong đó chỉ một vài hang nằm tách biệt, còn lại đều nối thông với nhau. Những hang động này đều được tạo hóa từ tự nhiên, không có sự can thiệp của con người. Trải qua hàng triệu năm, dấu tích của nước biển xâm lấn vẫn còn in rõ những vết sóng bào mòn ăn sâu vào đá, xuất hiện dọc khắp chân núi Mo So.”
Chính giữa núi Mo So là một vùng trũng rộng lớn như lòng chảo, mặt đất bằng phẳng, có hồ nước và không gian thoáng đãng, bốn phía được bao bọc bởi những vách núi gồ ghề, tầng tầng lớp lớp vươn lên giữa trời mây.
Ông Nguyễn Thái Bình, một người dân có 4 thế hệ sinh sống tại vùng núi Mo So cho biết, nơi đây ngày trước còn rất hoang hóa, địa hình hiểm trở, nên trở thành vị trí thuận lợi để làm căn cứ cách mạng. Những cuộc chiến diễn ra ác liệt, bất kể ngày đêm. Người dân buộc phải di tản tứ xứ, rồi khi tình hình yên ổn, lại dần trở về sinh sống. Khi ấy, núi Mo So bị bao bọc bởi đầm lầy, phương tiện duy nhất để vào được là những chiếc thuyền nhỏ chèo tay.
Đời sống người dân vô cùng gian khổ. Tuy nhiên, nguồn lợi thủy sản nơi đây lại phong phú, đủ để người dân và bộ đội bám trụ, sống đơn giản qua ngày: “Nông dân mà khổ lắm, cuộc sống khi ấy bấp bênh lắm. Ngày xưa đi xuồng chứ không được như bây giờ đâu. Lúc chiến tranh rồi là những hang lớn, nhỏ ở đây bị bít lại hết. Người dân mình mới mở ra, sống ở đây thì chúng tôi cũng có trách nhiệm gìn giữ rồi khai mở ra thêm. Ví dụ đường xá là chúng tôi cũng bồi đắp lại để đi lại thuận tiện hơn.”
Trăn trở gìn giữ và phát huy giá trị di tích
Ông Nguyễn Tấn Liệt - Nguyên Huyện đội trưởng Huyện đội Hà Tiên (người tham gia chỉ huy tại vùng núi Mo So thời kỳ kháng chiến) kể lại, năm 1947, giữa lúc kháng chiến chống Pháp bước vào giai đoạn ác liệt, Công binh xưởng 18 được thành lập trong hang Mo So.
Với chưa đầy 50 người, xưởng đảm nhiệm sửa chữa, chế tạo vũ khí phục vụ chiến trường. Năm 1951, thực dân Pháp huy động 600 quân, chia ba mũi tấn công Mo So. Ta chỉ có hơn 60 công nhân và chiến sĩ nhưng vẫn tổ chức rút lui an toàn, bảo toàn lực lượng.
Đến thời kháng chiến chống Mỹ, Mo So cùng các núi lân cận Sơn Trà và Cầu Thôn trở thành cụm căn cứ quan trọng. Địch nhiều lần ném bom, pháo kích từ bộ binh và tàu chiến. Trước sức ép ấy, lực lượng ta tổ chức phản công táo bạo, trong ba đêm liên tiếp bắn cháy 24 xe tăng. Ban ngày địch không chiếm được mục tiêu, ban đêm bị ta phục kích ngay tại các điểm nghỉ. Với cách đánh này lực lượng ta đã đánh đuổi quân xâm lược và gìn giữ được núi non, tổ quốc.
Ông Nguyễn Tấn Liệt chia sẻ: “Chúng dùng máy bay trực thăng cần cẩu, cẩu 2 khẩu pháo 105 ly đặt trên đỉnh cao của núi May, cách Mo So chừng một cây rưỡi số, rồi hạ nòng bắn trực xạ vào các ệng hang của ta. Các bạn có hình dung nổi, pháo 105 mà khoảng cách chỉ hơn một cây số, lại hạ nòng bắn trực xạ, bắn như sấm sét, như trời giáng. Mỗi lần chúng bắn kéo dài hàng giờ đồng hồ.
Sau đó dừng lại để bộ binh tràn lên tấn công ta bằng M72, bằng lựu đạn, bằng chất độc hóa học, kể cả bộc phá. Suốt gần 2 năm bám trụ Mo So, ta đã tiêu diệt hàng ngàn quân địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, bảo vệ vững chắc căn cứ địa chiến lược này.”
Ngày nay, Mo So đã được xếp hạng là Di tích lịch sử và thắng cảnh cấp quốc gia. Qua năm tháng, ngọn núi này vẫn hiên ngang, chất chứa bao ký ức hào hùng của dân tộc. Tuy nhiên, vẻ đẹp và những dấu tích ấy đang dần mai một theo thời gian, trong sự tiếc nuối của người dân bản địa.
Khác với nhiều điểm tham quan lịch sử khác, núi Mo So hiện nay vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Nhiều du khách đến đây chỉ ngắm nhìn rồi lặng lẽ ra về, bởi không có hướng dẫn viên thuyết nh về lịch sử, những trận đánh ác liệt, hay sự kiên cường của thế hệ cha ông trong công cuộc giữ gìn Tổ quốc thuở nào.
Ông Hồ Văn Lực – Giám đốc Trung tâm Văn hóa Thể Thao và Truyền thanh xã Kiên Lương cho biết, thời gian qua, với vai trò là đơn vị quản lý, trung tâm luôn trăn trở và mong muốn nhận được sự quan tâm, đầu tư từ các cấp chính quyền để từng bước phục dựng lại những dấu tích lịch sử và nâng cấp cơ sở vật chất tại khu di tích núi Mo So. Bởi hơn cả một địa danh, Mo So là nh chứng sống động cho một thời kỳ hào hùng của dân tộc.
Việc gìn giữ, tôn tạo nơi đây không chỉ là trách nhiệm với quá khứ, mà còn là cách để giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, đồng thời phát huy giá trị văn hóa lịch sử kết hợp phát triển du lịch bền vững trong tương lai: “Về phía cơ quan đơn vị sự nghiệp quản lý cũng muốn tham mưu cho Đảng ủy, Ủy ban, các ngành tạo điều kiện để làm sao kêu gọi được những nhà đầu tư. Một phần của nhà nước, một phần của đơn vị nhà đầu tư nếu họ làm được thì mình mạnh dạng đề xuất để họ làm. Để làm sao làm cho khu di tích lịch sử Mo So khởi sắc, phát triển”.
Mo So vẫn đứng đó lặng lẽ giữa đất trời phương Nam, như một nhân chứng sống cho những tháng năm khói lửa. Những vết đạn pháo hằn trên đá, những hang sâu từng cứu sống biết bao chiến sĩ… tất cả vẫn còn, nhưng cũng đang dần mờ đi theo tháng năm.
Vẻ đẹp hoang sơ và ký ức hào hùng nơi đây cần được nâng niu hơn nữa. Bởi từng vách đá, tán cây, lối mòn… đều đang thì thầm kể lại câu chuyện về một vùng đất anh hùng. Để Mo So trong tương lai không chỉ là ký ức, mà còn là niềm tự hào sống động giữa lòng An Giang mới.