Tuy là vùng đất ven biển dãi dầu, nhưng trước khi đường Hồ Chí Minh trên biển mở ra thì Thạnh Phong đã sớm được chọn là nơi đặt căn cứ địa tiếp nhận vũ khí của ền Bắc chi viện cho ền Nam thời kháng chiến chống Pháp. Trong không khí những ngày tháng 4 lịch sử, nhắc về bến tàu không số ở Nam Bộ thì phải kể đến bến cảng Thạnh Phong với những hồi ức bi hùng.
Căn cứ địa anh hùng trên đường Hồ Chí Minh trên biển
Nhìn từ bản đồ thì Bến Tre là một tỉnh được hợp nhất từ ba dải cù lao rộng lớn: cù lao Minh, cù lao Bảo, cù lao An Hóa. Trong đó, dải cù lao Minh dài nhất, nằm thườn thượt giữa hai con sông lớn Cổ Chiên và Hàm Luông. Ở cuối dãy cù lao này có mấy rặng bần chua, đước mặn, chà là gai đã từng một thời chở che cho bộ đội.
Tại đây, 79 năm trước, quân và dân Bến Tre đã mở đường trên biển từ xã Thạnh Phong đi ra ền Bắc xin chi viện vũ khí. Những địa danh Vàm Khâu Băng, Cồn Bửng, Cồn Lợi… đã đi vào lịch sử bởi đây chính là các bến đón những con tàu không số đầu tiên từ thời chống Pháp.
Xã Thạnh Phong và xã Thạnh Hải trước năm 1975 vốn là một, địa giới hành chính duy nhất của huyện Thạnh Phú giáp với biển Đông, dài 20km. Ở đây, đất đai rộng thênh thang xa ngút tầm mắt với mấy vạt rừng ngập nước, cồn bãi, nổng cát, con giồng. Địa hình heo hút lại là địa thế chiến lược, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, cách mạng ta đã chọn Thạnh Phong làm căn cứ địa với mấy xóm “nhà hầm” cho bộ đội. Từ đó, Thạnh Phong trở thành vùng đất chịu nhiều cuộc càn quét đẫm máu của giặc.
Ông Huỳnh Phước Hải – Thủy thủ trưởng Đoàn tàu không số (giai đoạn 1961-1975) cho biết tinh thần của quân và dân Bến Tre thời khắc nhận nhiệm vụ vận chuyển vũ khí: “Cái khó khăn lớn nhất ở nhiệm vụ này là gặp sóng gió và gặp tàu của hạm đội Mỹ. Nhưng mình quyết tâm cố gắng tránh mà đi, nếu không được thì sẵn sang hy sinh. Cái đó cũng là cái vinh hạnh để chúng tôi nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ. Trên đường đi, chúng tôi có đặt một bài thơ: Đường đi đất Bắc rất gay go/ Thuyền Nam nhỏ bé gặp sóng to/ Mênh mông trời đất nghìn xanh thẳm/ Núi non xa cách vạn muôn trùng/ Quyết đi, đi đến đích/ Hoàn thành nhiệm vụ Đảng giao cho”.
Mùa gió nam năm 1946, tại Vàm Khâu Băng, “nữ tướng” Nguyễn Thị Định cùng đoàn cán bộ Khu 8 xuống tàu, bí mật vượt biển ra Bắc để xin tài liệu, vũ khí mang về Nam phục vụ đánh Pháp. Nguyện vọng trên được chấp thuận, nhưng chuyến đi này không nhận vũ khí từ ngoài Bắc mà trở về nhận tại Phú Yên từ các đoàn tàu hỏa Bắc–Trung. Khi có vũ khí, con tàu bí mật làm cuộc hải hành về Nam, cặp bến an toàn tại Thạnh Phong vào mùa gió chướng năm 1947. Những chuyến sau đó được chuyển từ Bắc về Cồn Bửng nhưng lạc sang Vũng Luông (Bình Đại), may mắn thay, đơn vị đóng tại Thạnh Phong đã liên lạc được và đến để nhận vũ khí về.
Ông Trần Công Ngữ, Nguyên Phó chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre kể rằng: “Khi ra báo cáo với Bác Hồ và TW về cuộc kháng chiến lần hai thì mục tiêu kế tiếp là xin vũ khí. Mà người xông xáo xin vũ khí là cô Nguyễn Thị Định, lúc đó Bác Hồ và TW đồng ý sẽ cho vũ khí về Nam Bộ từ chuyến tàu mở đường này. Đến kháng chiến chống Mỹ, đường Trường Sơn chưa nối liền được để đưa vũ khí vào Nam thì ta tiếp tục khôi phục lại đường biển. Như vậy, lần thứ hai chúng ta tiếp tục vận chuyển vũ khí bằng đường biển từ kháng chiến chống Pháp đến chống Mỹ tại Bến Tre này”.
Sau Đồng Khởi năm 1960, các đơn vị bộ đội chủ lực ền… từ vùng bị địch tạm chiếm đã đến sinh sống và công tác tại Hồ Cỏ - Thạnh Phong rất đông đúc. Bước sang năm 1963, đất và người Thạnh Phong đối mặt với những trận càn quét đẫm máu vì địch phát hiện ra Thạnh Phong là điểm xuất phát và tiếp nhận vũ khí Bắc - Nam.
Người dân Thạnh Phong rút xuống sống dưới những căn nhà hầm đào sâu dưới lòng đất cát, vậy mà vẫn hứng chịu những đợt xả đạn đủ loại từ B52 trút xuống đến pháo hạng nặng của Hạm đội 7 nã vào. Cồn Rừng - Hồ Cỏ là nơi diễn ra trận chống càn của lực lượng bảo vệ căn cứ và địch trong 21 ngày đêm (giáp Tết năm 1964). Càng đánh, địch càng bị tiêu hao sinh lực nên cuối cùng phải rút lui, căn cứ địa Thạnh Phong được bảo vệ an toàn.
Với kinh nghiệm từ thời chống Pháp, Khu ủy Khu 8 tiếp tục tổ chức thực hiện vượt biển ra Bắc xin chi viện vũ khí phục vụ kháng chiến chống Mỹ. Lần này chuyến tàu xuất phát tại Cồn Tra vào tháng 8/1960, đến tháng 6/1962 tàu quay về cặp bến tại Vàm Lũng (Cà Mau). Đến tháng 6/1963 chuyến kế tiếp chở 75 tấn vũ khí cặp bến Thạnh Phong, chỉ trong hai đêm, số vũ khí được bốc dỡ cất giấu và trung chuyển an toàn.
Ông Trần Công Ngữ, Nguyên Phó chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre cho biết: “Sợ dĩ Thạnh Phú trở thành căn cứ địa của cách mạng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ là vì cái thế của địa phương này là nằm ven biển, có rừng ngập mặn và có thế trận lòng dân rất vững. Dân họ gắn bó với rừng nên họ nuôi cán bộ và trung thành với cách mạng lắm. Tất nhiên trong chiến tranh, chỗ nào cũng có hy sinh và mất mát hết, nhưng riêng vùng Thạnh Phú được ghi danh trong sử sách là vùng chịu nhiều ác liệt nhất”.
Vùng đất hồi sinh từ máu lửa
Trong 8 năm tiếp nhận vũ khí, quân và dân tại Thạnh Phong phải 3 lần châm ngòi phá hủy tàu. Lần thứ nhất vào năm 1962 tại xẻo doi Cồn Lợi, một tàu chở 10 tấn vũ khí đã cặp bến an toàn nhưng đến khi rút ra để quay về ền Bắc thì bị máy bay địch phát hiện nên cán bộ trên tàu phải hủy tàu để giữ bí mật bến bãi. Lần thứ hai xảy ra vào năm 1963, chuyến chở 80 tấn “hàng” khi gần tới bờ biển Thạnh Phong thì bị mắc cạn, sau khi bốc dỡ hàng hoàn tất, đơn vị ở đây cũng châm ngòi nổ hủy tàu.
Chuyến cuối cùng chở 50 tấn “hàng” đến Thạnh Phong vào cuối tháng 11/1970 đã gần cặp bến thì bị tàu tuần tiễu của địch phát hiện, siết chặt vòng vây. Sau cuộc đọ súng ác liệt nhưng không cân sức, chi bộ trên tàu quyết định hủy tàu rồi lệnh cho tất cả chiến sĩ còn sống sót rời tàu bơi vào bờ bằng thúng nan.
Ông Huỳnh Phước Hải – Thủy thủ trưởng Đoàn tàu không số ( giai đoạn 1961-1975) bồi hồi nhớ lại: “Tôi xúc động là trong số những đồng chí đi chung với chúng tôi có cả thương binh và thậm chí là hy sinh trên biển khơi vì phá hủy tàu, họ không thể trở về đất liền. Lúc đó chúng tôi còn trẻ, không sợ hy sinh gian khổ, quyết tâm làm theo lời Bác Hồ, mang vũ khí về Nam để giải phóng quê hương, đất nước”.
Bến tàu không số Thạnh Phong cũng chứng kiến những thời khắc nghẹt thở khi quân và dân Bến Tre phải đấu trí với địch trong quá trình vận chuyển vũ kí. Nhất là sau Tết Mậu Thân 1968, đồn bót của địch đã đóng giăng khắp Thạnh Phong, mọi hoạt động tiếp nhận vũ khí càng khó khăn và khốc liệt gấp bội. Nhưng với tinh thần yêu nước và khẳng khái của nhân dân xứ Đồng Khởi, vòng vây và cả sự càn quét của địch cũng không làm cho quân dân nản chí. Nơi đây có hơn 1.000 cán bộ, chiến sĩ đã chiến đấu từ ngày thành lập cho đến khi kết thúc nhận nhiệm vụ vận chuyển vũ khí vào vùng căn cứ. Trong thời gian từ tháng 6/1963 đến tháng 11/1970, có 28 chuyến tàu cập bến Bến Tre, gần 400 lượt cán bộ, chiến sĩ trực tiếp tham gia đoàn tàu và hơn 600 cán bộ, chiến sĩ tham gia tiếp nhận, vận chuyển, cất giấu vũ khí. Trong số gần 1.500 tấn vũ khí được đơn vị A101 - Bến Bến Tre tiếp nhận tại đầu cầu xã Thạnh Phong, có chưa tới 5% lượng vũ khí bị thất thoát.
Sau giải phóng, cũng tại bến Thạnh Phong, chính những con người từng tham gia dân công hỏa tuyến ngày nào lại tích cực khai khẩn đất hoang, biến vùng đất rừng bị nhiễm chất độc da cam/dioxin thành những vuông tôm, vườn xoài, vùng trồng hoa màu... mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ðời sống của người dân đã khá giả hơn trước rất nhiều. Từ vùng đất hoang vu, nông dân Thạnh Phong đang phát phát triển mô hình trồng xoài trên đất giồng cát, nuôi tôm quảng canh. Thạnh Phong ngày nay đã biết làm du lịch với bãi biển thơ mộng và trữ tình. Tour du thuyền đưa du khách băng qua sông Cổ Chiên để thưởng ngoạn cảnh rừng bần nguyên sinh mênh mông, trải dài hơn 20km. Trên du thuyền, du khách còn có cơ hội thưởng thức những món hải sản tươi sống được đầu bếp chế biến và phục vụ ngay giữa khung cảnh sông nước mênh mông.
Ông Nguyễn Tấn Phong, Phó GĐ Trung tâm Văn hóa - Thể Thao, Truyền Thanh và Du lịch huyện Thạnh Phú cho biết: “Ở Thạnh Phong chúng ta du lịch tâm linh, có lăng Ông, có nhiều di tích lịch sử nên ta sẽ đặt vấn đề khai thác du lịch tâm linh. Du khách thập phương đến đên có thể tìm hiểu về truyền thống cách mạng của các bậc anh hung nên đây, hy sinh để giành độc lập hôm nay. Đối với các em học sinh thì chúng ta tổ chức các buổi ngoại khóa để các em hiểu them về truyền thống”.
Để có đại thắng 30/4 lịch sử, đã từng có một góc trời Thạnh Phong đau thương, oanh liệt. Hôm nay, biển Thạnh Phong vẫn xanh thẫm chập chùng, sóng giành sóng, âm ba vọng lại là những chiến công vang dội của một thời với biết bao người đã ngã xuống cho ngày hôm nay. Cũng trên quê hương cách mạng này, giờ đây tiếp nối truyền thống của những dân công hỏa tuyến tại bến Thạnh Phong là lớp con cháu trở thành những nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi.