Đi tìm Hồng Ngọc Óc Eo…

Gạo đỏ - lúa mùa từng là niềm tự hào của nông dân ĐBSCL vì có chất lượng thơm ngon và nhiều dinh dưỡng. Nhưng do năng suất thấp, trong khi nông dân thì theo đà phát triển cây lúa cao sản nên lúa mùa mất chỗ đứng trên cánh đồng nơi nó từng sinh sôi.

Mấy chục năm tưởng chừng rơi vào quên lãng, khi xu hướng thực dưỡng lên ngôi thì người ta mới nhận ra giá trị của gạo đỏ và tiếc cho một nguồn gen quý.

Ngoài kia, thị trường đang sôi nổi kìm kiếm gạo màu thì ở Óc Eo xa xôi có một vị giáo già đã bền bỉ tìm tòi, lai tạo và phục tráng thành công giống lúa mùa cho gạo đỏ mang tên Hồng Ngọc Óc Eo. Hồng Ngọc Óc Eo vang danh bốn phương trong nhóm gạo màu và là “hạt ngọc” kiêu hãnh của vùng đất lúa Thoại Sơn mây núi chập chùng.

Hành trình phục tráng giống lúa "Hồng Ngọc Óc Eo"

Nông dân châu thổ Cửu Long có cách đặt tên cho mỗi giai đoạn sinh trưởng của cây lúa nghe rất dân dã và đậm chất “duyên”, nào là: giống, mạ, lúa con gái, lúa dậy thì, lúa chín.

Từ xa xưa, những giống lúa bén duyên trên đồng đất quê nghèo cũng được cha ông đặt cho những cái tên mỹ ều, để sau này “hạt ngọc” còn vươn vai sánh vai với bạn bè bốn bể.

Gạo Hồng Ngọc Óc Eo là đứa con lai của Tàu Binh - Jasne 85 và OM - 4926. Màu hồng đỏ, dẻo thơm, khô ráo.

Hồng Ngọc Óc Eo được “khai sinh” từ văn hóa ấy, nghe dễ thương theo kiểu thôn nữ hiền lành, không kiêu sa như những “cô gái” chốn thành thị. Hồng có nghĩa là màu của hạt gạo; Ngọc ngụ ý chỉ gạo là “hạt ngọc” của đất trời; Óc Eo là quê hương của tác giả lai tạo thành công giống lúa này – nhà giáo Danh Văn Dưỡng. Óc Eo cũng là quê hương đầu tiên nhân giống Hồng Ngọc trên diện rộng cách đây 10 năm.

Trong “ngân hàng” 3.000 giống lúa mùa của Nam Bộ có một cái tên “cố cựu” là Tàu Binh, năng suất rất thấp, sức sống phi thường, cho ra gạo đỏ nhưng đã thất truyền 30 năm vì không đáp ứng được yêu cầu lợi nhuận. Trong một bối cảnh khác, ở xã Óc Eo – tỉnh An Giang có thầy giáo Danh Văn Dưỡng (giảng dạy ở trường Trường phổ thông cơ sở Vọng Thê) đam mê nghiên cứu cách lai tạo giống qua sách vở.

Sau giờ lên lớp, thầy Dưỡng dành thời gian tham gia nhiều lớp tập huấn Kỹ năng chọn tạo lúa do Trung tâm khuyến nông tỉnh An Giang tổ chức. Một ngày đầu hè năm 2004, thầy Dưỡng được bạn bè tặng cho 6 hạt lúa Tàu Binh, thầy đã vượt qua 20.000 nông dân cùng thời, bền bỉ lai tạo để cho ra đời đứa con Hồng Ngọc “cực phẩm” hôm nay.

Hồng Ngọc Óc Eo hội tụ đủ các ưu điểm của giống lúa đặc sản, có sức chống chịu tốt trong bối cảnh biến đổi khí hậu, kháng sâu bệnh tốt, thời gian sinh trưởng chỉ 95 ngày, cho năng suất từ 7-9 tấn/hecta.

Nhà giáo Danh Văn Dưỡng cho biết lý do khi lai tạo ra Hồng Ngọc: “Ngày xưa ruộng lúa mùa thì chỉ thu hoạch được 100 kg lúa/công thôi, không đủ ăn thì sao mà bán. Khi tôi đi tập huấn nông nghiệp thì tôi mới nghĩ ra việc mình phải chọn để lai ra một giống khác biệt và mới lạ. Mới lạ ở đây là vừa ngon, vừa thơm, vừa có năng suất và vừa chống chịu sâu bệnh tốt nữa”.

Buổi đầu lai tạo, Tàu Binh là “người bố” rắn rỏi, thể hiện sức sống phi thường, có thể sinh trưởng trong mọi điều kiện sinh thái, như: ngập lũ, nhiễm phèn, khô hạn và kháng bệnh tốt. Nhưng Tàu Binh rất thô kệch với đặc tính khô cơm, chu kì sinh trưởng tận 8 tháng. Lai tạo với Tàu Binh là “người mẹ” Jasne 85 với ưu điểm hương thơm dịu nhẹ, cơm dẻo dính răng.

Thế hệ F1 của bộ đôi Tàu Binh - Jasne 85 ra đời không đồng nhất, hạt đỏ không đều, có hạt thì giống bố, có hạt giống mẹ, cũng có hạt không giống ai. Sau đó, tác giả lựa chọn những hạt “ưu tú” nhất trong nhóm F1 cho lai tạo tiếp với giống OM - 4926 giàu chất sắt, thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất cao. Sau 12 mùa thử nghiệm thì Hồng Ngọc đạt chuẩn ra đời.

Nhà giáo Danh Văn Dưỡng - tác giả lai tạo ra giống lúa Hồng Ngọc Óc Eo

Nông dân Lê Thanh Phong – người mạnh dạn chọn Hồng Ngọc gieo trồng trên cánh đồng nhà mình ở xã Óc Eo, tỉnh An Giang nhận định: “Cây lúa này đặc điểm so với các loại lúa thường thì nó cứng cây lắm, trong vụ Hè Thu là không bị đổ ngã. Ngoài ra nó kháng sâu bệnh tốt lắm nên từ đó mình canh tác thì giảm được chi phí sản xuất”.

Hồng Ngọc hội tụ đủ các ưu điểm của giống lúa đặc sản, có sức chống chịu tốt trong bối cảnh biến đổi khí hậu, kháng sâu bệnh tốt, thời gian sinh trưởng chỉ 95 ngày, cho năng suất từ 7-9 tấn/hecta. Gạo Hồng Ngọc màu hồng đỏ với hàm lượng Omega 3 và Omega 6, cùng các anoacid có lợi. Cơm nấu từ gạo Hồng Ngọc đúng chuẩn là một mẻ cơm “ưu tú” nhất trong các dòng gạo thơm.

Cựu giáo chức Danh Văn Dưỡng tự hào: “Hạt gạo có màu đỏ hồng từ ngoài vỏ đến tận trong ruột, chỉ cần nhai hạt gạo cũng đã thơm và rít chân răng rồi. Khi nấu cơm lên, cơm sôi là hương thơm phất lên, mình ngồi trước nhà cũng ngửi được hương thơm này tận dưới bếp. Cơm nấu ăn từ hôm trước để qua đến hôm sau vẫn ngon, vẫn thơm như cơm mới. Thơm nhè nhẹ chứ không gắt, hạt cơm ráo lắm chứ không mềm nhũn (tèn lèn)”.

Tiềm năng và triển vọng

Kể từ năm 2012, Hồng Ngọc Óc Eo nổi lên và trở thành giống tuyển chọn trong phong trào trồng gạo màu bán giá cao của nông dân vùng Thoại Sơn. Hồng Ngọc có mặt khắp nơi trong các sự kiện về nông nghiệp, được doanh nghiệp mạnh dạn ký hợp đồng bao tiêu với giá lúa tươi thấp nhất 6.000 đồng/kg. Cái thời mà giá lúa thường còn trồi sụt thì Hồng Ngọc đã dẫn đầu lập đỉnh giá cả ở vùng này. Vụ Đông Xuân năm 2013, sản lượng bao tiêu Hồng Ngọc của riêng Thoại Sơn lên đến 60 hecta.

Vụ Đông Xuân 2014 Hồng Ngọc được mang sang nước Lào sản xuất phục vụ dự án phát triển nông nghiệp của tỉnh Champasak trên diện tích 100 hecta. Năng suất trung bình của vụ đầu tiên lên đến 6 tấn/hecta, người dân Lào từ ngỡ ngàng đến thán phục và nhiều đoàn khách từ Campuchia, Thái Lan... qua tham quan cũng hết lời tán thưởng.

Đứa em kế tiếp của Hồng Ngọc có tên gọi là Huyền Ngọc cũng do cựu giáo chức Danh Văn Dưỡng lai tạo thành công.

Nhà giáo Danh Văn Dưỡng kể: “Đất bên Lào khô cằn lắm mà vẫn trồng được Hồng Ngọc đạt 6 tấn/hecta thì chúng ta thấy giống này có tố chất rất mạnh mẽ. Khắp ền Tây, ền Trung, ền Bắc hễ nghe đến giống Hồng Ngọc là ai cũng biết nó có sức chống chịu sâu rầy tốt, sống ở nơi phèn chua cũng được mà khô hạn cũng được. Hễ có mưa là tươi tốt lên ngay vì nó thừa hưởng tố chất của người bố là giống Tàu Binh”.

Qua 10 năm phát triển, Hồng Ngọc nay đã có em, là: Óc Eo 8 (gạo trắng) và Huyền Ngọc (gạo tím đen). Cả 3 chị em Hồng Ngọc khi nấu thành cơm đều có hương thơm và dẻo. Lúa cứng cây, chống được sâu bệnh, đó là điều kiện tốt nhất để nông dân yên tâm sản xuất, không phải lo tốn tiền sử dụng thuốc trừ sâu.

Hồng Ngọc ra đời đã tạo nên một phong trào chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng với một khát vọng sản xuất hạt gạo thơm, ngon, màu sắc lạ. Cũng từ đây mà nhiều thương nhân ở tận ền Bắc và ền Trung đã tìm đến xã Óc Eo để mua giống về ngoài đó gieo trồng.

Bà Trương Thị Hà – Phó Giám đốc Trung tâm Giống nông lâm ngư nghiệp tỉnh An Giang khẳng định tố chất và triển vọng của Hồng Ngọc Óc Eo như thế này: “Qua phân tích các chỉ số thì giống lúa này có hàm lượng vitan cao hơn các giống khác rất nhiều, như: Protein, sắt, Caxi, vitan E và B1. Nhờ những ưu điểm này mà Hồng Ngọc có tiềm năng trở thành sản phẩm gạo đặc sản của An Giang. Vì là giống tiềm năng nên đã được cấp bằng bảo hộ giống cây trồng, được doanh nghiệp bao tiêu và cung cấp thị trường nội địa với diện tích 200 hecta”.

Cả 3 chị em Hồng Ngọc Óc Eo - Hồng Ngọc Óc Eo 8 và Huyền Ngọc Óc Eo khi nấu thành cơm đều có hương thơm và dẻo.

Cựu giáo chức Danh Văn Dưỡng nay đã ở ngưỡng 75 tuổi, trong đời làm nông dân, ông đã được ghi nhận bằng những Bằng khen của Thủ tướng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (cũ), Bộ Khoa học và Công nghệ, Hội Nông dân Việt Nam, UBND tỉnh An Giang. Ông trở thành nông dân Khmer tiêu biểu nhất của An Giang trong phong trào thi đua yêu nước, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Thế nhưng, ông vẫn còn trăn trở nhiều lắm về tương lai của Hồng Ngọc. Hiện giống này vẫn được sản xuất chủ yếu theo đơn đặt hàng mà chưa thể tự chủ trong bầu trời mở rộng, chưa được đại đa số nông dân chọn làm giống đại trà ở diện tích lớn hơn. Với truyền thống lúa nước lâu đời như ở ĐBSCL, lương thực chính vẫn là loại gạo trắng, Hồng Ngọc được tin dùng để sản xuất thực phẩm nhiều hơn là lương thực. Nhưng thị trường lương thực vẫn kỳ vọng, thế hệ tiếp nối sẽ nhân rộng Hồng Ngọc Óc Eo trong thời gian tới.  

Sự ra đời của Hồng Ngọc Óc Eo đã thể hiện tinh thần yêu cây lúa của đội ngũ nông dân, trí thức vùng ĐBSCL, bất kể những người này có làm việc ở đâu và chưa từng được học bài bản chuyên sâu về nông học. Tự hào của ngành hàng lúa gạo Việt Nam đâu chỉ thể hiện ở chất lượng hạt gạo mà còn thể hiện từ tinh thần chịu thương, chịu khó của lực lượng nồng cốt là nông dân.

Chính họ đã ệt mài phục tráng những giống lúa mang nguồn gen quý xa xưa, thuần dưỡng để chúng trở thành một phiên bản “xuất sắc” đáp ứng mọi tiêu chuẩn của thị trường. Một giống lúa mới ra đời, đóng góp vào kho gạo đồng bằng là đã là một niềm tự hào của thế hệ nông dân Việt Nam!