Dấu xưa Chắc Băng

Trên dải đất hình chữ S, sông nước Cà Mau là một bức tranh tuyệt đẹp, ở đó, con người và thiên nhiên gắn bó bền bỉ và đậm sâu. Trong số nhiều dòng trường giang uốn quanh đất mũi, kinh xáng Chắc Băng là cái tên huyền thoại đã đi vào lòng người từ thuở khai hoang.

Dòng kinh trăm tuổi này từng chứng kiến chuyến tập kết lịch sử, rồi cung cấp nước ngọt cho những vùng đất trù phú nơi nó chảy qua. Chắc Băng cũng vang danh là nơi sinh ra nhiều bóng hồng nền nã, hậu duệ của các bậc giai nhân diễm lệ một thời.

Dấu ấn vàng son trên dòng lịch sử U Minh

Kinh xáng Chắc Băng dài 40 cây số, nối ngã ba Sông Trẹm tại huyện Thới Bình (Cà Mau) đến ngã ba sông Cái Lớn ở huyện Vĩnh Thuận (Kiên Giang). Dòng chính của Chắc Băng bắt nguồn từ sông Cái Lớn rồi xuôi về Cà Mau qua lòng Thới Bình thôn, kết thúc ở ngã ba Cái Tàu.

Phác họa hình ảnh thì Chắc Băng như một cái đòn gánh với hai đầu là sông Cái Lớn và sông Trèm Trẹm nên rất thuận tiện thông thương giữa vùng U Minh Hạ và U Minh Thượng.

Kinh xáng Chắc Băng dài 40 cây số, nối ngã ba Sông Trẹm tại huyện Thới Bình (Cà Mau) đến ngã ba sông Cái Lớn ở huyện Vĩnh Thuận (Kiên Giang).

Ông Võ Thanh Xuân – Bí thư thị trấn Vĩnh Thuận, huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang cho biết chức năng của kinh Chắc Băng từ thời xa xưa: “Ngày xưa thực dân Pháp khai thác con kinh này là để vận chuyển “vàng trắng”, tức là muối ở Bạc Liêu qua Xà No rồi lên Sài Gòn. Ngoài ra, con kinh này xa xưa dùng để di chuyển nhằm khai thác lúa, mật ong vùng U Minh và thu mua lông chim để làm áo ấm”.

Ngược dòng lịch sử, Chắc Băng thuở mới hình thành là một con kinh nhỏ, chưa có tên. Trong cuốn “Bạc Liêu xưa” ghi nhận, vùng đất này là nơi ẩn náu của vua Nguyễn Ánh trong lúc chạy trốn nghĩa quân Tây Sơn. Lâm trọng bệnh, Gia Long Đế trăn trối với quan quân rằng: “Cơn bệnh ngặt nghèo này không chữa hết, chắc Trẫm phải băng rồi”.

Về sau, người ta nhớ câu nói “Trẫm chắc băng” nên đặt tên cho con kênh này là Chắc Băng. Còn theo Nhà văn Sơn Nam lý giải, địa danh Chắc Băng là do đọc trại từ tiếng Cao Miên “Chap tung”, nghĩa là chim chằng bè, loại chim có nhiều ở vùng đất này. Cách lý giải nào cũng có lý và cơ sở riêng, nhưng giờ không còn quá quan trọng so với giá trị mà con kinh này đang mang lại cho vùng đất nơi nó chảy qua.

Giá trị to lớn nhất mà Chắc Băng đem lại cho dãy cư dân đôi bờ là mang những dòng phù sa từ các con sông thượng nguồn về bồi trúc cho vùng đất Thới Bình và Vĩnh Thuận, phục vụ sản xuất nông nghiệp.

Theo các vị cao niên, Chắc Băng xưa kia rất âm u và môi trường sống khắc nghiệt, sản vật trời cho chủ yếu là chim cò. Những năm 1873, nơi này đã xuất hiện mấy sân chim nổi tiếng, như: Thứ Nhứt, Kinh Dài, Cái Nước, Thầy Quơn. Sản lượng chim cò quy tụ về đây đủ loài, như: thằng bè, bồ nông, lông ô, già dãy, già sói… cùng nhau hòa âm bằng những tiếng kêu rộn ràng như những bản nhạc rừng.

Cứ cuối tháng Giêng âm lịch thì sân chim Chắc Băng nhộn nhịp mùa thu hoạch, người ta lấy lông chim đem bán cho thương nhân nước ngoài.

Năm 1919, thực dân Pháp cho đào mở rộng, kinh xáng Chắc Băng càng trở nên quan trọng trên tất cả các lĩnh vực từ đời sống kinh tế đến văn hoá và quốc phòng. Những năm 1927, phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, nhiều nơi trong tỉnh Rạch Giá được các đồng chí cán bộ tuyên truyền, vận động, giác ngộ.

Thời kỳ này, nhiều thanh niên ở Rạnh Hạt, U Minh và các vùng lân cận cũng tích cực tham gia các phong trào đó. Vậy là mùa khô năm 1932, Chắc Băng chứng kiến Chi bộ Đảng đầu tiên của Đảng bộ tỉnh Kiên Giang được thành lập tại làng Ranh Hạt (Vĩnh Thuận).

Nhờ lấy nước từ kinh xáng Chắc Băng để trồng lúa và nuôi tôm mà hiện nay ở Thới Bình và Vĩnh Thuận nổi tiếng với những vùng trồng lúa cao sản hữu cơ đã được cấp giấy chứng nhận quốc tế. Vừa thu hoạch lúa, vừa thu hoạch tôm, đời sống nông dân ở đây nhanh chóng khá giả.

Ông Võ Thanh Xuân – Bí thư thị trấn Vĩnh Thuận, huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang cho biết thêm: “Việc thành lập Chi bộ Đảng ở Ranh Hạt, trên dòng Chắc Băng này đã cho thấy ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và đường lối của Đảng đã về đến vùng xa xôi nhất. Từ đó tiến đến lãnh đạo cách mạng và giành chính quyền về tay Nhân dân”.

Khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, Bác Hồ đưa bộ đội và cán bộ ền Nam ra Bắc học tập, kinh Chắc Băng được chọn là trung tâm khu tập kết 200 ngày đêm. Chắc Băng in đậm dấu ấn của những ngày chia tay nghẹn ngào, câu hát tiễn biệt. Ở đó, bà má Lê Thị Sảnh gởi cây vú sữa cho cán bộ tập kết kính tặng Bác Hồ với lòng kính yêu của toàn dân ền Nam dành cho Bác Hồ và ền Bắc.

Cựu chiến binh Phạm Văn Ước cho biết lý do Chắc Băng được chọn làm điểm tập kết: “Đường sông này có rừng nên bộ đội về nương tựa được, địa thế rất mang tầm chiến lược, tập kết về đây mà nếu giặc phản đòn thì bộ đội rút vô rừng, vẫn sống được. Sông ở đây cũng toàn là sông lớn, tàu lớn vô ra thuận lợi nên cấp trên chọn Chắc Băng này là có lý do”.

Dòng kênh khai mở sinh kế bền vững

Xưa nay Chắc Băng là tuyến giao thông thủy huyết mạch nên lúc nào cũng tấp nập tàu bè. Trên dòng có hai khu chợ thu hút lượng ghe xuồng đông đúc lâu đời là chợ nổi Vĩnh Thuận chuyên buôn hàng trái cây và chợ Vàm chuyên giao thương mặt hàng tôm nguyên liệu.

Đã vậy, Chắc Băng còn sôi nổi bởi mấy lượt tàu cao tốc vượt sóng vận chuyển hành khách, sà lan “ăn hàng” cát, đá từ An Giang – Đồng Tháp nối đuôi xuôi dòng để phục vụ những công trình xây dựng trong tỉnh.

Thu hoạch tôm càng xanh trong ruộng lúa

Giá trị to lớn nhất mà Chắc Băng đem lại cho dãy cư dân đôi bờ là mang những dòng phù sa từ các con sông thượng nguồn về bồi trúc cho vùng đất Thới Bình và Vĩnh Thuận. Hàng loạt những con kinh nhân tạo được đào nối từ kinh Chắc Băng để vận chuyển hàng hoá, tháo phèn, rửa mặn… tạo nên những cánh đồng tôm - lúa bạt ngàn.

Nhờ lấy nước từ kinh xáng Chắc Băng để trồng lúa và nuôi tôm mà hiện nay ở Thới Bình và Vĩnh Thuận nổi tiếng với những vùng trồng lúa cao sản (giống ST) hữu cơ đã được cấp giấy chứng nhận quốc tế. Vừa thu hoạch lúa, vừa thu hoạch tôm, đời sống nông dân ở đây nhanh chóng khá giả. Người ta ví von Thới Bình và Vĩnh Thuận là hạt ngọc đôi bờ Chắc Băng.

Anh Lê Thanh Phong, ngụ xã Trí Lực, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau cho biết: “Lúa thì phát triển rất tốt, tôm càng thả mật độ hợp lý cũng phát triển theo. Giờ bà con mình ở đây thoải mái lắm, tháng nào cũng có thu nhập từ tôm – cua. Hồi trước một năm mình mới thu nhập một lần từ cây mía và cây lúa, còn giờ thì đa canh đa con nên tháng nào cũng có thu nhập”.

Chắc Băng cũng vang danh là vùng đất sinh ra nhiều bóng hồng nền nã. Tương truyền, trong lúc Nguyễn Ánh lâm bạo bệnh, ông đã cho phép một số cung nữ xuất cung lấy chồng và định cư ở vùng đất này. Vì là cung tần, mỹ nữ của bậc đế vương nên nhan sắc rất diễm lệ, con cháu họ sau này ở vùng Chắc Băng - Thới Bình vì thế mà có sắc đẹp hơn người.

Ấn tượng khó quên một thời trên dòng Chắc Băng là hình ảnh người phụ nữ có dung mạo mặn mòi, tóc dài chấm vai, chèo ghe bán mía với giọng rao lảnh lót, làm xao xuyến lòng người.

Trăm năm đi qua, Chắc Băng vẫn ngày đêm thao thiết chảy, êm đềm. Dọc hai bờ kênh là trụ sở huyện, trường học, bệnh viện, doanh trại quân đội…, đặc biệt hơn là những ngôi nhà tường khang trang hai, ba tầng với đầy đủ tiện nghi, đường giao thông thông suốt.

Một điểm khác biệt của kinh xáng Chắc Băng là không “ba chìm bảy nổi” như những nơi khác, dòng kinh gắn với nhiều hoạt động hưng thịnh theo thời cuộc. Trăm năm đi qua, Chắc Băng vẫn ngày đêm thao thiết chảy, êm đềm. Dọc hai bờ kênh là trụ sở huyện, trường học, bệnh viện, doanh trại quân đội…, đặc biệt hơn là những ngôi nhà tường khang trang hai, ba tầng với đầy đủ tiện nghi, đường giao thông thông suốt.

Hiện giờ, Chắc Băng đưa nước phục vụ sản xuất, hòa quyện giữa “mặn” và “ngọt” để hình thành mô hình tôm-lúa phát triển bền vững theo hướng thuận thiên, mang lại nhiều lợi ích cho người sản xuất và cho cả người tiêu dùng nông sản sạch trong và ngoài nước. Nông dân xứ Thới Bình – Vĩnh Thuận cứ nhắc nhở nhau hoài: Nếu không có kinh xáng Chắc Băng, chắc gì xứ này sung túc đến vậy!