Trong các dụng cụ ấy, đặt trúm lươn mang giá trị sáng tạo cao và độc đáo nhất, thể hiện sự hiểu biết của lưu dân với thiên nhiên và được cộng đồng sử dụng nguyên dạng cho đến ngày nay.
Thợ lươn U Minh – những người đọc vị đất rừng
Dựa theo cuốn “Lịch sử khẩn hoang ền Nam” của nhà văn Sơn Nam thì vào cuối thế kỷ XIX, ở phía bắc Cà Mau có rừng kéo dài đến chợ Cà Mau, dưới chân rừng, lươn đồng hằng hà sa số. Đầu thế kỷ XX, kim ngạch xuất khẩu khô lương vùng U Minh có giá trị tương đương vài triệu giạ lúa mỗi năm.
Trải qua mấy mùa giặc Mỹ rải chất độc nhổ cỏ U Minh, lươn đồng vẫn không chết. Ngư trường của chúng nh mông nhưng toàn “lươn lẹo” trong đất khiến người ta không nhìn thấy hình thù, nên U Minh mới cần “thợ lươn” tài giỏi.
Thợ bắt lươn được dân gian dị nể đứng thứ 3 sau thầy rắn và bà mụ vườn, có lẽ vì lươn khó bắt nên những người nắm giữ được chúng đều nhận được sự trân trọng của người đời.
Lươn là loài thủy sản có thân hình ống, da trơn không vảy, sống dưới bùn trong môi trường nước ngọt, thuộc dạng “ngọc ngà” của thiên nhiên vì phẩm chất thịt ngon và giàu hàm lượng dinh dưỡng. Mỗi năm, khi rừng tràm được tắm mát bởi những cơn mưa đầu mùa, chân rừng sủng nước là lúc nghề đặt trúm lươn bắt đầu, kéo dài từ tháng 6 đến hết tháng 12.
Ông Lê Hoàng Thắng – “cao thủ” 40 năm tuổi nghề đặt trúm lươn ở xã Khánh An, tỉnh Cà Mau kể về kinh nhiệm tinh tường địa lý, đặt trúm lươn bách phát bách trúng: “Tháng 5 đặt trúm ngoài chỗ trống trải, vô mùa gió chướng là phải đặt trúm ở chỗ sậy gộp, sậy ủ thì lươn chạy nhiều lắm, toàn con lớn lớn không à. Còn khi mới đầu mùa mưa, đặt trúm khơi ở ngoài cũng dính luôn vì nước xuống là lươn trong hang bò ra. Ngoài đặt trúm thì ở đây cũng có cặm câu nhưng 10 con dính câu đều chết hết, không có bán được. Nó chết nó nuốt lưỡi câu”.
Theo lưu truyền, ban đầu trúm được làm bằng lá dừa nước cuộn lại, qua thời gian người ta thay thế bằng ống tre. Tre làm trúm phải thẳng, thân to nhưng mỏng vỏ nhằm chứa nhiều lươn và nhẹ nhàng khi khuân vác, mỗi ống dài khoảng 1 mét, đường kính rộng khoảng 10 đến 15 phân.
Miệng trúm lắp vào một cái hom làm thật khéo và chắc mới giữ được lươn trong ống, còn không thì chúng chui vô ăn mồi lại nhởn nhơ quay đầu bò ra. Hom trúm càng bóng láng thì “độ nhạy” của nó càng cao.
“Cá chết vì lưới, lươn chết vì mồi”, kinh nghiệm dân gian đã cho người thợ công thức làm mồi nhữ bách phát bách trúng. Mồi nhử lươn truyền thống ở U Minh Hạ được sử dụng từ ốc - cua - cá băm nhuyễn rồi xào với xác dừa khô cho thơm, trộn chung với cám, sau đó dùng những cọng năn tươi gói mồi lại thành từng cục bỏ vào ống trúm.
Nhưng để gọi là “thần dược” cho đúng khẩu vị loài kháo ăn này phải cần đến kinh nghiệm và sáng tạo. Ở vùng đất bị nhiễm phèn, thợ cho thêm lát chanh băm nhỏ trộn vào để tinh dầu vạch đường dẫn mùi mồi lan tỏa xa trong nước cho lươn tìm đến.
Còn muốn cho lươn hội vào trúm thì pha thêm tỏi vào mồi, lươn ăn bị cay, chép ệng như tiếng mời gọi đồng loại đến dùng đại tiệc.
Ông Trần Văn Nhì – thợ bắt lươn ở xã Nguyễn Phích, tỉnh Cà Mau hồi tưởng mùa lươn xộ trúm theo công thức nhữ mồi của mình: “Mỗi một mùa cá chú bắt lên, lấy bộ đồ lòng thắng ra mấy trăm lít dầu, dầu này tanh lắm. Sau đó trộn cá - ốc với dầu cá này làm mồi, nghe mùi này lươn nó khoái dữ lắm. Thời đó chú đặt dính 40kg/đêm, ngày nào xổ chỉ có 10kg là chê ít rồi đó, mà ít là nghỉ ở nhà mấy ngày, không thèm đi đặt tiếp. Trước đây đặt trúm tại một vị trí, để hoài ở đó khi nào cạn nước thì thôi, không dời đi đâu hết vì lươn nó nhiều dữ lắm, dính con từ 1,2kg trở lên là nhiều, con nhẹ nhất cũng 500gr. Ban ngày nó ở sâu lắm, ban đêm cái nó lội trên mặt nước kiếm ăn, nghe mùi tanh này là nó bườn tới chui vô trúm liền. Bắt về đâu có ăn vì ngán (cười)”.
Cũng chính vì nó lươn lẹo khó nhìn thấy hình hài mà ông thợ đặt trúm cũng phải “trên thông thiên văn, dưới tường địa lý”. Những chỗ rốn sâu, cỏ lát không theo kịp nước nên lá vàng úa, cá nhỏ tìm đến ăn bã do cỏ loại ra thì chắc chắn nơi đó có lươn mò tới kiếm cá.
Những hôm trời chuyển mưa lớn thì đặt trúm ở các gò cao vì lươn có thói quen đến vùng đất mới tìm mồi. Miệng trúm phải xuôi theo chiều gió để hương thơm của gói mồi trôi rộng khuyến dụ lươn tìm đến ăn. Muốn bắt lươn lớn thì ệng trúm phải đặt nằm sâu dưới mặt nước vì lươn nhỏ thường tìm mồi bên trên, còn lươn to thì chuyên đớm mồi ở tầng sâu.
Ngọc ngà từ bùn đất – nghề trúm lươn giữ hồn U Minh
Ký ức của những ngày bắt lươn mệt nghỉ là khoảng năm 1985 – 1995, chỉ cần đặt trúm cố định rồi chiều nào cũng ra đổ mồi, sáng hôm sau đi dở mỗi trúm dính đầy lươn. Ông thợ đặt trúm chỉ được bắt những con đủ kích cỡ nhất định, loại nhỏ phải thả lại rừng để chúng lớn lên phát triển cho đời sau. Lươn lớn bán đi xuất khẩu, đem về tiền bạc và của cải cho dân xứ rừng, ông “thợ lươn” thời đó chỉ cần sở hữu 40 ống trúm là dư sức chạy gạo nuôi cả gia đình.
Ông Lê Hoàng Thắng kể: “Chú nói thật sự, không thêm bớt phóng đại gì hết, những năm 1990, bắt con lươn “chạy” trúm con nào con nấy bằng bắp tay. Một ống trúm dính 3-4 con, có ống dính đầy nhóc luôn. Loại 1,7kg/con là nhiều, cái loài này mà mình không bắt nó thì ngoài tự nhiên nó cứ lớn tới tới hoài vậy đó. Chỉ có cái xương nó thì mình nhai không nổi thôi chứ còn thịt thì béo ngon dữ lắm. Mà hồi đó bán có 2.500 đồng/kg à, hai vợ chồng chú nuôi 5 đứa con bằng nghề đặt trúm này tới nay trưởng thành gả cưới hết đó”.
Con lươn rừng U Minh Hạ đúng thật là “ngọc ngà”, nó trở thành chiếc cầu nối làm ấm êm tình làng nghĩa xóm, thân tộc, sui gia. Khách quý đến nhà lấy lươn ra đãi, khách về lấy lươn bỏ vô giỏ làm quà. Bữa cơm hằng ngày của dân U Minh thường là lươn um lá nhàu, lươn xào sả ớt, lươn kho nước cốt dừa, lươn nấu cháo môn, ngon nhất là lươn nấu canh chua trái giác với bông súng đồng.
Nghề đặt trúm lươn đi vắt qua mùa mưa như thế, mấy chục năm trời là sinh kế cho dân xứ U Minh. Tri thức dân gian nghề đặt trúm lươn gắn liền với nét đẹp trong văn hóa ứng xử, người cùng hành nghề có trách nhiệm bảo vệ tài sản cho nhau, quần tụ nương nhờ lúc hoạn nạn.
Văn hóa của người “thợ lươn” ở U Minh Hạ là họ không giữ bí quyết làm mồi nhữ lươn cho riêng mình mà xem đó là kiến thức chung của cộng đồng, buộc người sau không được làm thất lạc và phải có trách nhiệm bổ sung hoàn thiện. Ngày nay, thế hệ kế thừa đã biết bỏ thêm hương vị thuốc vào mồi để thu hút lươn nhạy hơn trước. Để thuận lợi cho việc di chuyển gọn nhẹ, giới săn lươn đã sáng tạo ra trúm bằng chất liệu nhựa thay cho ống tre.
Thịt lươn đồng bây giờ được xếp vào dạng cấp phẩm đặc sản đối với đô thị, dĩa thức ăn đặc sản U Minh luôn có ngôi thứ chễm chệ, có khi lấn lướt cả những món sơn hào hải vị của Tây, Tàu.
Nghĩ đến đây, ai cũng muốn quay về cái thời đi bắt sản vật mênh mông, cái thời lươn đồng ăn đêm sa mình vô trúm chép ệng gọi bầy, cái thời nhà cửa tềnh toàng, trống trước dột sau mà ăn lươn đồng đến ngán.