Nước về thì cá tép cũng theo về, rau dại ngủ quên bỗng bừng tỉnh trổ bông khi phù sa chạm vào gốc. Thủy quyển luôn là niềm tự hào bao đời nay của cư dân xứ sở chín sông, tạo ra nhiều sản vật, duy trì sinh kế của những hộ dân hạ bạc. Phong phú là vậy, nhưng cách đây trên dưới hai mươi năm, ền Tây cũng từng đón những mùa nước nổi mà khi ấy cư dân ền này vẫn hay gọi là “mùa lụt” nhớ đời!
Nhớ mùa nước dữ
Chu kỳ nước nổi được tính từ mốc mùng 5 tháng 5 (âm lịch), thủy quyển mềm mại bắt đầu từ cao nguyên xa xôi chảy về, kết hợp với mưa tại chỗ đã làm đầy các nhánh sông. Trong suốt 6 tháng, mực nước lên xuống mạnh nhất vào độ trăng rằm, mà đạt đỉnh cao nhất là vào rằm tháng 9. Sau đó, nước đứng yên đến rằm tháng 10 rút đi mất. Dân châu thổ đặt cho thủy quyển nơi này nhiều cái tên, gồm: mùa nước nổi, mùa nước lớn, mùa nước lên, mùa lũ, mùa lụt.
Từ năm 2009 đổ về trước, ền Tây Nam Bộ đã từng chứng kiến nhiều mùa lụt rơi đúng vào năm Thìn mà theo cách nói dân gian của người dân ệt đồng là năm… rồng “quậy”. Năm Nhâm Thìn 1952, nước lụt tràn về biến con sông Hậu hiền hòa trở nên dữ tợn, nước chảy ồ ồ ngập trắng phố phường. Đến năm Giáp Thìn 1964, nước thượng nguồn đổ xuống như thác, gây lụt trên một diện tích rộng lớn của hạ lưu sông Mekong.
Tới năm Canh Thìn 2000, nước lớn chưa từng thấy, ngập hết 8 tỉnh ền Tây làm 481 người chết, thiệt hại mùa màng và nhà cửa gần 4.000 tỷ đồng. Số người chết trong mùa lụt ấy đa phần do đi mưu sinh bắt cá rồi bị chìm ghe hoặc do bệnh tật mà không được cấp cứu kịp thời. Khi đó, chỉ cần nhìn thấy trong mái lá nào có gác đèn dầu liêu xiêu ánh lửa là biết nhà có tang.
Nhà nghiên cứu văn hóa Nam Bộ Nguyễn Hữu Hiệp, sinh ra và lớn lên ở huyện Phú Tân (cũ), tỉnh An Giang nhớ lại:
“Nước ngập làm hư đường xá hết, gà vịt nó nhảy lên nóc nhà đứng, chỗ nào cạn lắm nước cao 1 thước (1 thước = 1 mét), chỗ nào sâu, nước cao 3 thước. Nước ngập lênh láng hết những cánh đồng, mưa gió sóng lớn làm chìm xuồng, giữa đồng mênh mông chìm là chịu chứ không biết lội đi đâu. Người nhà thì ngóng chờ, không thấy chồng/cha của mình về nên đi kiếm. Tìm thấy thì đã mất mấy ngày, người nhà chở về rồi xóc chéo cây để quan tài lên đó, chờ nước rút mới hạ huyệt an táng được”.
Dù lụt lội gây thiệt hại nặng nhưng bà con ền Tây vẫn quan niệm rằng, năm Thìn thì phải bão lụt. Mấy đời nay vẫn sống chung với lụt lội rồi hình thành sinh kế đó thôi, nên năm nào cũng ngóng mùa lụt về để còn đi bắt cá.
Dân vạn chài ở đây chia cá tôm thành 03 nhóm, nhóm cá trắng gồm: mè vinh, mè hôi, cá linh, cá dãnh, các chạch; nhóm cá đen gồm: cá lóc, cá trê, cá rô; nhóm cá da trơn gồm: cá chốt, cá lăng, các kết, cá trèn. Mùa lụt thuở xưa hội tụ tất cả những loài sản vật này cùng một lúc, hàng ngàn bầy đàn với hàng triệu con tung quẫy từ sông vào tới tận những cánh đồng.
Cao điểm từ tháng 7 đến hết tháng 9 (âm lịch), nước cuồn cuộn chảy về, lôi lũ tép rong ra sông để ăn sinh vật phù du rồi lớn nhanh thành tôm lóng. Nước dưỡng nuôi nhóm cá trắng bon chen dưới tầng nước mát mà chỉ cần bủa lưới là đã bắt được cả chục ký/lần. Trên sông, dân vạn chài hạ cái vó lưới rộng đã gài cố định ở đầu mũi chiếc ghe, lùa đàn cá vô sát bờ rồi cất vó lên, mỗi chuyến mất 5 phút mà thu về cả chục ký cá trắng đủ loại.
Có nhóm thì bủa lưới, một lần bủa như vậy kéo lên dính đặc kẹo cá mè dinh, cá trèn. Có cả gia đình ăn ngủ trên ghe đóng đáy, mỗi lần trải đáy là thu được mấy giạ cá chốt, cá linh (1 giạ = 20kg). Nước dâng tràn ngập các cánh đồng trồng lúa, đưa cá loài cá đen vô trú ngụ mê mồi gốc rạ, thấy vậy nên người ta chia nhau đẩy côn và đặt dớn, một ngày đẩy côn bắt được một xuồng cá lóc, cái dớn xổ ra dính cả bầy cá chạch - cá gầm - lòng tong.
Nhà nghiên cứu văn hóa Nam Bộ Nguyễn Hữu Hiệp kể:
“Mùa nước hồi đó cá linh nhiều lắm, cho dù không có lưới, chỉ cần cái thau thôi, đưa xuống múc lên cũng có cá để ăn. Mùa nước nổi là dân rất vui, cá ăn không hết, làm khô mắm và làm phân bón cho cây trồng. Ngoài ra nước nổi phù sa cũng theo về, có chỗ phù sa bồi đắp cho cây cối cao hơn một gang tay”.
Lụt dâng, thanh niên thời đó chộn rộn rủ nhau đi bắt cá. Giữa trưa đi đào trùn hổ làm mồi câu, lưỡi câu mới thả xuống đã bị cắn liệt phao, giật lên đa phần dính cá rô mề. Từ xế chiều chống xuồng đi giăng lưới, trung bình 2 tay lưới giăng ngang 1 vuông ruộng, mỗi lần thăm lưới là gỡ cá mỏi tay, từ: mè dinh, cá rô, cá sặc.
Khi nước đứng là chuyển qua giăng câu, đầu hôm cặm cần câu thì tới khuya đi thăm một lần, đa phần cách này dính nhiều cá lóc, chỉ cần đi cách đó vài bước chân mà nghe nhảy đùng đùng là biết ngay dính con cá bự.
Nước lụt còn mang về lượng lớn phù sa bồi bổ ruộng vườn, phù sa “quyến rũ” đến nỗi, khi chảy về đồng bằng này, tắm mát những bộ rễ cằn khô là rau dại bừng tỉnh giấc. Nhờ có phù sa, điên điển trổ bông vàng óng khắp các nhánh sông; rau dừa được nước cũng thêm giòn mượt; súng ma vươn lên trổ bông thơm ngát cả một cánh đồng. Những loại rau ngon này được khai thác mạnh để ăn cùng sản vật cá mắm mùa nước lên.
Những hộ dân ở xã Phú Tân, tỉnh An Giang vừa hái bông điên điển vừa kể:
“Hột bông điên điển nó sống trong tự nhiên rất bền bỉ, mùa nước năm nay chảy về, trái bông điên điển tét ra rụng hột xuống, nằm lẩn khuất rồi tấp mô mé bờ. Tới năm sau cặp mé bờ sông đó cây điên điển mọc lên, ai tới muốn hái bao nhiêu thì hái, không bị la rầy gì hết.
Chị em ở xóm rủ nhau vô đồng hái bông điên điển bán, có người tới nhà cân rồi về làm dưa đi bán, mình thì cũng có tiền xài. Sáng đi sớm hái, hái tới trưa mới về. Hồi đó làm lúa có một vụ thôi, nước lên đi bắt cá kết hợp hái bông điên điển bán, sống cũng được lắm.
Khoảng cuối tháng 10 thì nước lụt rút từ từ, nông dân chuẩn bị trục đất và bơm nước ra khỏi ruộng để sạ vụ mùa mới, cá tép mải mê trong đồng nên bị mắc kẹt lại. Hồi đó bà con hay đặt cái ống bọng vào chân máy Kohler để bơm nước ra khỏi ruộng, ngay ệng ống nước đó, lũ trẻ lấy rổ xúc hứng tép rong. Nước chảy tới đâu tép đọng tới đó, cả chục ký hơn, đem về luộc sơ rồi phơi khô để dành nấu canh cho ngọt. Ai thích ăn tép khô thì bốc một nắm bỏ vô ệng, nhai cả vỏ lẫn râu, giòn thơm mùi hương của đồng đất.
Nhà nghiên cứu văn hóa Nam Bộ Nguyễn Hữu Hiệp cho biết thêm: “Nước rút xuống xem xép sẽ lộ ra mấy cái đường nước, mấy đường nước này là trời sinh, tự nhiên nó có giữa đồng. Nước từ trên cao chảy xuống, ở dưới này người ta móc đất chặn ngang dòng chảy, con cá lóc từ trên nó lội xuống cái nó mắc kẹt chỗ cái đập này. Lúc đó đứa con nít 10 tuổi mang cái gộng ra bắt, con cá lớn cỡ nào nó bắt cũng được, tại lúc đó con cá hết vùng vẫy nỗi rồi”.
Mùa no ấm của đồng bằng
Từ năm 1997 – 2010, Chính phủ đã cho triển khai hàng loạt các công trình kiểm soát lũ trên 4 vùng: Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, Tây sông Hậu, vùng giữa sông Tiền và sông Hậu. Hệ thống thủy lợi này đã làm chậm lũ đầu vụ và giảm đỉnh lũ chính vụ, điều tiết một phần nước lũ ra biển Tây, vừa cải tạo được môi trường nước mà đất cũng nhận được phù sa, nguồn thủy sản vẫn dồi dào.
Hiệu quả của các công trình này đã giúp việc sản xuất vụ lúa Hè Thu và Đông Xuân hàng năm ổn định, diện tích canh tác tăng thêm 300.000 hecta, sản lượng tăng từ 12 triệu tấn lúa năm 1995 lên 21 triệu tấn lúa vào năm 2010. Từ đó, mùa lụt không còn gây thiệt hại nữa, người dân cũng chuyển qua gọi là “mùa lũ” để thể hiện cách ứng xử hài hòa với thiên nhiên, năm nào nước về nhiều thì gọi là “lũ đẹp”.
Ông Nguyễn Văn Gàng - Trưởng ấp Phú Thuận, xã Nhơn Hội, nơi được mệnh danh là “rốn cá” của tỉnh An Giang cho biết:
“Nói chung trong mùa nước nổi, thời điểm mà cá nhiều nhất là vào khoảng giữa tháng 8 đến hết tháng 9 (âm lịch). Lúc đó, cá nó phát triển to rồi nên chạy nhiều, kinh tế của người dân nơi đây chỉ nhờ vào 6 tháng mùa nước, cố gắng làm để dành dụm tiền. Có những người làm kiếm được 100-200 triệu”.
Trải qua nhiều thế kỷ, mùa lũ ở ĐBSCL vẫn vậy, mang nhiều tôm cá. Tuy nhiên, biến đổi khí hậu ngày một cực đoan tác động lên khắp châu thổ, có năm, đồng bằng ghi nhận lượng nước thấp hoặc trung bình chứ không nhiều. Người dân cũng bắt đầu thay đổi cách ứng xử với lũ, bên cạnh việc khai thác tự nhiên thì tận dụng thế mạnh của lũ để chủ động sản xuất. Dân vạn chài ở xã Nhơn Hội, tỉnh An Giang xúm xít nói như thế này:
“Khuya đi đặt dớn, đặt dớn là bán đủ thứ, từ: cua, cá ốc…thu nhập cũng được 400.000 đồng/ngày. Khi bắt cá ngoài tự nhiên là tôi chọn lưới thưa để bắt cá lớn thôi, chừa cá nhỏ cho nó đẻ. Có người tận dụng mùa lũ để thả nuôi cá trê lai, sặc trắng, mè dinh, mè hoa,… nó có tảo ăn nên máu lớn lắm. Ở xứ chúng tôi bây giờ là suốt 12 tháng đều có cá bán”.
Mùa lũ ở ền Tây là như vậy đó, đi vắt qua nhiều năm vẫn luôn được xem là mùa no ấm, người dân luôn mong ngóng nước về để bắt tôm cá đầy khoang. Nhưng quang cảnh mùa lũ ền Tây ai nhìn cũng thấy buồn man mác vì nước tràn từ sông vượt qua bờ bãi ngập trắng cánh đồng, kéo dài bất tận.
Mùa lũ còn tiếp diễn trong tương lai, chỉ mong thiên nhiên ưu đãi mãi để châu thổ này tràn đầy tôm, cá. Mỗi khi mùa lũ về, ông cha ta có dịp nhắc lại mùa lụt cũ, mùa lụt “nhớ đời” của thời thơ ấu!