Không rộn ràng như chợ nổi, không rực rỡ như vườn cây trái nhưng những lò than củi vẫn âm ỉ đỏ lửa qua ngày tháng đã góp phần hun đúc nên ký ức của một thời gian khó, góp nên một phần ký ức khó phai của vùng đất Cửu Long.
Nơi giữ lửa nghề
Hầm than củi là một nghề truyền thống lâu đời của người dân vùng ĐBSCL, trong đó thành phố Cần Thơ và tỉnh Cà Mau là hai địa phương ghi dấu đậm nét với nghề này. Các bậc cao niên ở đây nhớ lại, từ trước năm 1975, người dân nơi đây đã học nghề rồi xây lò hầm than bắt đầu làm quen với nghề đốt củi thành vàng đen.
Dần về sau, nghề hầm than thu hút nhiều gia đình tham gia sản xuất và phát triển thành làng nghề.
Men theo tỉnh lộ 927C, chúng tôi dễ dàng đến xóm lò than thuộc xã Phú Hữu, thành phố Cần Thơ. Những người thợ kể rằng, họ không biết chính xác nghề làm than có mặt ở đây từ lúc nào, chỉ biết rằng, có người đã làm nghề hơn 50 năm, có người gắn bó từ thời trai tráng đến tóc bạc hoa râm và có cơ nghiệp riêng. Hồi ấy, điều kiện đi lại hoàn cảnh khó khăn, việc học chữ nghĩa cũng xếp sau chuyện cơm, áo, gạo tiền nên phần nhiều bà con theo nghề cha truyền con nối này.
Nhà nào có đất thì xây lò, ai không ruộng vườn thì làm mướn cho các chủ lò để kiếm kế sinh nhai. Từ vài lò ban đầu, giờ, ở đây có nhiều hộ gia đình làm ăn khấm khá, từ một lò than giờ đã phát triển lên 5 - 7 ệng lò. Có thời điểm, có hơn 500 lò than hoạt động ngày đêm ở vùng này. Khác với các lò xây bằng đất ngày xưa, lò hầm than ngày nay xây bằng gạch kiên cố để sử dụng lâu dài. Mỗi lò cao khoảng 4 m, đường kính 5-7 m, hình bầu giống như chiếc nón úp xuống, có cửa lò để chất củi vào và lấy than.
Ông Hồ Văn Nhành, chủ lò than tại đây cho biết, nghề có lúc thăng lúc trầm nhưng nhiều người ở đây vẫn quyết tâm bám nghề vì đó là “ếng cơm manh áo” của họ suốt nhiều thập kỷ qua: "Nghề này làm lâu đời cuộc sống có bao nhiêu mà, đâu làm nghề khác được. Xưa chủ yếu làm nhà, ít mướn lắm. Củi 1 thước, cưa làm 2 vô lò mình chụm. Mình coi chất khói biết nó chín, chín hết, không cho nó chín hết còn 1 lớp cũng được, chín thơm than, khói thơm là biết hết. Lò mình chụm 20 ngày nó chín mình bế lại, 10 ngày nữa mình lấy ra than nó ngụi, đúng tháng. Cực cái chụm. Ở đây khu làm than hết, đa số trẻ làm nhiều, chú lớn để con cái nó làm".
Theo lời ông Nhành, công thức làm than từ xưa đến nay không thay đổi nhiều. Phải mất cả tháng mới ra lò một mẻ than. Trước đây, chủ lò tận dụng một số loại cây có sẵn trong vườn như nhãn, bạch đàn nhưng nguyên liệu ngày càng khan hiếm, người làm than phải xuống ệt Cà Mau mua củi đước.
Củi sau đó được cắt thành từng đoạn dài khoảng nửa mét, lột sạch vỏ để nhanh chóng hấp thụ sức nóng. Sau đó là xếp củi vào lò, phải đảm bảo chất đúng quy cách theo từng nấc nằm chồng lên nhau. Khâu tốn nhiều thời gian nhất là chụm lửa lò liên tục từ 15 - 20 ngày.
Trong suốt thời gian này, người thợ phải thường xuyên theo dõi ngọn lửa và màu khói để điều chỉnh nhiệt độ trong lò. Những người thợ lành nghề sẽ nhìn vào màu sắc khói thoát ra để biết khi nào than trong lò đã chín. Khi than đã đạt yêu cầu, lò được bịt kín hoàn toàn để than nguội dần trong khoảng 15 đến 20 ngày mới mở lò.
Chị Nguyễn Thị Tám, một thợ làm than chia sẻ: "Củi đước hoặc cây tạp, bạch đàn thì mình hầm vẫn được. Chụm là hết 1 tháng rồi, rồi mình bế nữa là từ nữa tháng ăn lên. Lò nhỏ nhỏ vừa vừa là nữa tháng, còn lò bự từ 20 ngày ăn lên. Dồn đi dồn lại khoảng 2 tháng mới được 1 lò. Nhà có điều kiện thì 5-7 lò, còn không có thì 1-2 lò. Than này chị bán ở đây nhưng chủ mua cho lên xe đóng thùng, xuất khẩu".
Nghề cũ trong dáng hình mới
Đối với người trong nghề “ngán” nhất là lúc chui vào lò lấy than chín ra. Trong vòm lò hầm bưng bít ngột ngạt, phải hít thở khói bụi bay mịt mù. Người không quen là không chịu nổi. Tuy cực và ảnh hưởng đến sức khỏe nữa, nhưng bà con nói vui rằng, đã trót theo nghề này thì chấp nhận.
Ông Hồ Văn Nhành, chia sẻ tiếp: "Lò 1 tháng ra 1 lần, lâu lắm, tùy theo 15-20 tấn cũng có, lò lời 10 mấy đến 20 triệu có, giờ lời meo lắm, không có lời nhiều đâu. Bây giờ nhờ nhiều cái nên đỡ một chút. Nghề làm than khỏe, bây giờ mình mướn nhân công không, mình chỉ coi tới lui thôi, chứ đâu có làm gì đâu."
Công nhân làm nghề phần lớn là những người cùng xóm, nên cũng nương nhau trong làm việc. Công việc ra than chín là của chị em phụ nữ, khuân vác xuống ghe cho thương lái là của cánh đàn ông. Trung bình một ngày, một lao động làm việc ở lò than có thể kiếm khoảng 200.000-400.000 đồng/ngày, tùy việc nặng nhẹ. Ở khu vực làm việc của lò than, những khuôn mặt đen nhẻm, bàn tay lấm lem vì bụi than, tất bật, vất vả nhưng lúc nào cũng rộn rã tiếng nói cười. Bởi với họ, tay chân có lấm lem vì bụi than nhưng nó gửi gấm cơm áo, gạo tiền, và tương lai con trẻ.
Chị Trần Thị Thu chia sẻ: "Làm như cái này mần riết cũng quen. Bụi thì bụi dữ lắm đó. Bịch (khẩu trang) hút vô hích ra thở không nổi. Ra lò rồi vô trỏng he rồi lấy dòng ba cái than hốt bụi bay ngập trong lò hết. Ra người nào người nấy đen thui nhưng cũng không có bịch luôn nữa. Quen làm nổi, nói chung ai ở đây cũng quen cuộc sống này hết rồi."
Nếu ngày trước, than làm ra chỉ quanh quẩn tiêu thụ trong vùng hay các tỉnh lân cần thì giờ đây, than đã lên tàu xuất ngoại, mang lại thu nhập ổn định cho người làm nghề. Ông Hồ Văn Nhành chia sẻ tiếp: "Ghe lại cân chở đi thành phố. Bây giờ than đi Đài Loan nhiều, thành ra than có giá nè. Lò nhóc, ở đây lò than đa số. Vườn người ta bỏ, làm lò than đa số, lò giờ sống khỏe hơn vườn, vườn làm không có lời."
Không riêng thành phố Cần Thơ, nghề hầm than cũng được nhiều bà con tại Cà Mau gìn giữ. Các cơ sở, hợp tác xã chế biến than đước nơi đây vẫn ngày ngày đỏ lửa mỗi năm cho ra thị trường hàng trăm tấn sản phẩm. Than đước Cà Mau nổi tiếng nhờ chất lượng vượt trội như: Than cháy lâu hơn, nhiệt lượng cao hơn, được khách hàng ưa chuộng sử dụng trong các nhà hàng, quán nướng. Mỗi kg than đước được sản xuất từ khoảng 5kg gỗ đước thô. Gần đây, các làng nghề hầm than đang được quan tâm quy hoạch để hoài hòa giữa việc phát triển kinh tế và câu chuyện môi trường. Dẫu vậy, người làm nghề vẫn muốn giữ nghề bởi không đơn thuần là sinh kế mà là niềm tự hào, một phần ký ức tuổi thơ, một biểu tượng của sức sống dẻo dai, của tinh thần vượt khó, chịu thương chịu khó đặc trưng của người ền Tây Nam Bộ.
Dẫu nay đời sống đã đổi thay, nhiều nghề mới xuất hiện nhưng ở những xóm lò hầm than, lửa nghề vẫn còn âm ỉ cháy. Và mỗi lần ghe chở than xuất bến, là mỗi lần quá khứ và hiện tại lại một lần nữa giao nhau, trong dáng hình của một nghề cũ, vẫn đang lặng thầm tỏa nhiệt, giữ lửa cho bao phận người ền đất chín sông.