Từ thời Mạc Cửu, dọc sông Cái Tàu đã có những thôn xóm trù phú, nước sông dưỡng nuôi cây cối, cá tôm. Theo bóng thời gian, Cái Tàu trở thành tên đất, tên vàm gắn với nhiều trầm tích văn hóa, lịch sử và bản sắc con người. Ở cái xứ muỗi mòng – đỉa vắt nhiều vô kể như U Minh vẫn có một Cái Tàu hun hút vườn xanh như ngọc, nếp sống con người phóng khoáng và nhân hậu nổi tiếng một vùng.
Dòng ký ức và sản vật trù phú
Cái Tàu nước ngọt dừa xanh
Ðã xinh con gái lại lành con trai
Câu ca dao khen ngợi vùng đất Cái Tàu mà bất kỳ ai được một lần về đây cũng đều gật đầu “nhất trí”, vùng đất trù phú gắn với nếp sống con người khoan hòa, trí tuệ hơn người. Bắt đầu câu chuyện từ con sông “trời sinh” mang tên Cái Tàu, thuộc địa phận huyện U Minh (cũ). Sông này bắt nguồn từ dòng Trèm Trẹm (chặng Tắc Thủ) chảy dài đến tận ngã tư rạch Tiểu Dừa, tiếp giáp với huyện An Minh (cũ) rồi đổ ra vịnh Thái Lan. Dài 43km, sông Cái Tàu chảy giữa lòng U Minh Hạ, qua các xã: Khánh An, Khánh Lâm, Nguyễn Phích, U Minh.
Nguồn gốc dân cư dọc hai bên bờ sông phần lớn là những lưu dân không chịu khuất phục ách đô hộ thực dân, tha phương đến đây mở đất tìm kế sinh tồn. Nhiều thế hệ sinh ra và lớn lên dọc sông Cái Tàu đã tự tạo cho mình những cái nghề vang danh khắp chốn từ xa xưa.
Ông Dư Tấn Anh, nguyên Bí thư xã Nguyễn Phích giai đoạn 1979 – 1982 kể rằng: “Từ thế kỷ XVII đã có sông Cái Tàu này rồi. Trước đây, dân cư ở đây sống nghề làm vườn, như: trồng khoai, trồng củ cải, trồng trầu, trầm lá, đương đát. Đến lúc tôi lớn lên và biết thì vùng này chuyển sang trồng dâu – loại cây ăn trái chủ lực của xứ Cái Tàu”.
Tên Cái Tàu được lý giải theo một giai thoại dân gian, có nghĩa là con sông lớn có nước lờ lợ. Thành tố “Cái” là từ phổ biến theo cách đặt tên địa danh của dân châu thổ, thành tố “Tàu” nghĩa là vùng nước lợ. Đúng như thực tế, sông Cái Tàu pha nước ngọt của sông Trẹm và vị mặn từ sông Ông Ðốc lấn vào nên “ba chè” lờ lợ theo đoạn, theo mùa. Do gắn với một vùng dân cư rộng lớn mà Cái Tàu đã vượt lên khỏi phạm vi tên sông, trở thành tên tên xóm, tên vàm.
Sông Cái Tàu là bầu trời ký ức thời thơ ấu của người U Minh. Khoảng 23 năm trở về trước, sông Cái Tàu là tuyến giao thông huyết mạch nối liền huyện U Minh (cũ) với thành phố Cà Mau (cũ). Những cái tên, như: tàu Minh Tân, tàu Phú Hưng, tàu Bưu Điện,… thay phiên xuôi ngược trên dòng sông để chở người đi xa và đón người trở lại. Những buổi chiều tắt nắng trên bến sông quê, người ta rôm rả đứng đón người phương xa quay về trong niềm nhớ mong da diết.
Ông Trần Văn Nhì - thế hệ thứ 5 được sinh ra và lớn lên ở vùng Cái Tàu, ngụ ấp 1, xã Nguyễn Phích kể lại: “Ngày xưa trên sông Cái Tàu toàn đi bằng đò nhỏ, sau này mới có thêm phà lớn chở được cả trăm người. Có những người sống ở phương xa mà đâu có điện thoại thông nh như bây giờ, cứ chiều chiều dân quê ra bờ sông đón, coi có người thân, người quen nào về thăm quê hương hay không”.
Cũng trên dòng Cái Tàu, ở những khúc ngã ba (vàm sông) thường có xuồng ba lá chèo bán đủ loại bánh ngon và vật dụng thường ngày, như: bánh ú lá tre nếp ngâm nước tro trong vắt, bánh mì nóng hổi, rổ tre của cánh phụ nữ khéo tay bền bỉ đan bồ. Vào những buổi sớm mai đầy nắng, nhiều chiếc ghe câu tư lự với vài bóng người thả dây câu, giăng lưới, quăng chài. Sông Cái Tàu chia làm sáu tháng nước mặn - sáu tháng nước ngọt, ký ức của dân vạn chài trên dòng trường giang này là bắt cá mỏi tay. Khi ốp lưới hay dở chà chán chê thì chuyển sang “tuyệt chiêu” đâm cá bằng chĩa bách phát bách trúng.
Ông Dư Tấn Anh bày tỏ lòng tự hào về sản vật quê nhà một thời như thế này: “Ngày xưa dòng sông này cỏ mọc hai bên bờ sông nhiều lắm, nông dân mới làm cái lưới chừng mấy trăm thước, ốp vô cỏ, kéo sát vô bờ. Sau đó, xả cỏ bỏ, còn lại cá, bắt một lần 300 kg cá là bình thường. Cá thì toàn là các loài ngon, như: cá lóc, cá rô, cá lăng, cá bông, cá trèn. Hồi đó không có bình xiệt điện như bây giờ, thấy con cá lóc bông lội qua là người ta đâm xuống bắt lên”.
Nước sông Cái Tàu cung cấp cho lưu vực quanh đây xổ phèn và nuôi trồng thủy sản, dưỡng nuôi cây trái tươi tốt quanh năm. Biểu tượng cây lành trái ngọt của Cái Tàu là những rặng dâu bạt ngàn, vàng óng ả. Cây dâu được mang về Cái Tàu nhân giống và gieo trồng từ thời xa xưa, có vỏ mỏng, mọng nước, vị ngọt. Từng một thời, mùa dâu là sinh kế chính của nông dân Cái Tàu. Ngoài ra, dừa nước mọc ven sông Cái Tàu cũng thuộc loại tốt nhất ở Cà Mau với chiều dài ngoại cỡ. Từ thứ dừa nước thượng hạng này, người Cái Tàu lấy đan mê bồ dí lúa từ xa xưa.
Ông Trần Văn Nhì (biệt danh Út Nhì) hồn hậu kể lại cái khâu giữ mùa dâu chín trước hàng ngàn chiếc mõm thèm thuồng của loài chim Két: “Cà Mau chỉ có mỗi xứ ven sông Cái Tàu này trồng dâu được thôi, nơi đây đất sét vàng nên dâu nó tươi tốt, đạt gần một tấn trái/cây. Hồi còn sống thì chua mà chín nó ngọt dữ lắm. Hồi tôi 15 tuổi, sáng sớm là Ba Má kêu ra vườn canh chim Két, nó khoái ăn dâu lắm. Một bầy hàng hàng con xà xuống ăn, con mái nó ăn no thì nghỉ, còn con trống là ngắt nguyên chùm bay lên trời, mà lựa toàn chùm ngon nhất, nhiều trái nhất để ăn”.
Điểm hẹn du lịch sinh thái
Cái Tàu cũng vang danh là “vựa mật” của Việt Nam, chất lượng “Bạch Hoa cao” của Cái Tàu thuộc hàng thượng hạng: thơm lừng, tinh khiết, sánh vàng, trong vắt, không biến chất và không bị đọng đường. Ngày đầu mở đất, chưa có dầu hỏa thắp sáng trong đêm tối mực, dân Cái Tàu ép trái mù u hoặc thắng mỡ cá để làm chất đốt đèn. Nhưng dầu cá và mù u lâu ngày hôi hám, người ta mới vô rừng bắt lấy sáp vắt bỏ mật đem về làm nến đốt.
Tinh túy của thiên nhiên thuở đó chỉ được dùng để chan cơm hoặc bị bỏ chỏng chơ chẳng ai ngó tới. Rồi khoa học và y học phát triển, mật ong trở thành nguyên liệu quý giá để tham gia bào chế dược liệu, cũng từ đó nghề gác kèo ong nở rộ, Cái Tàu trở thành “trung tâm” khai thác mật ngon của cả nước. Nghề di sản gác kèo ong ở Cái Tàu đã mang lại sự sung túc cho người dân địa phương.
Nói đến đây, Nghệ nhân ưu tú dân gian trong nghề gác kèo ong mật tiêu biểu tại Cà Mau - Trần Văn Nhì bắt đầu tự hào diễn tả: “Mỗi một mùa gác kèo tôi thu về 2.000 lít mật, mà một năm làm 2 mùa. Mật ong thiên nhiên ở cái xứ Cái Tàu này để 3 năm vẫn không phai màu, vẫn thơm phức. Vùng đất ở đây cao, không bị nhiễm phèn nên cây tràm trổ bông tiết mật thuộc hàng cực kỳ tốt. Hồi đó tôi bán 1 lít mật có 10 xu, rồi từ từ được 20 xu, lên một đồng. Tới bây giờ là bán 500 ngàn đồng/lít”.
Cốt cách toàn diện người Cái Tàu cũng được nhận định xứng đáng là một “trang tuấn kiệt”. Từ xưa, người dân Cái Tàu đã hình thành nền nếp sống văn hoá đẹp: phụ nữ thì đảm đang, khéo léo; đàn ông thì siêng năng, bặt thiệp, tài hoa. Từ đời này truyền sang đời khác, người Cái Tàu nổi tiếng khoan hoà, hào sảng, tài hoa, trọng nghĩa khinh tài. Hễ khách đến chơi thì xem là người nhà, khách giã từ thì chủ nhà ít nhiều gì cũng tặng một món quà như thể ruột thịt.
Lý giải cho những tố chất này, nguyên Bí thư xã Nguyễn Phích - Dư Tấn Anh cho biết: “Ở đây là cái nôi cách mạng, hồi 9 năm kháng Pháp, những trường học nơi đây đã dạy người ta có trình độ văn hóa rồi. Từ chỗ có trình độ văn hóa đó, người ta mới học theo nếp sống của ông bà để lại: hiền hòa, đạo đức, biết kính trên nhường dưới, lễ độ và lâu ngày làm nên truyền thống. Phụ nữ Cái Tàu thì vừa đẹp người, đẹp nết thông qua câu thơ “Con gái Cái Tàu đẹp thấy mê”. Hồi đó ở đây có nhiều nhà làm bánh khéo, đương đát cũng khéo rồi lấy lá dừa thắt con rít hay làm bông hoa cũng rất khéo”.
Trải qua bao thăng trầm của thời gian, sông Cái Tàu vẫn êm đềm thơ mộng, giống như người dân Cái Tàu sống chân chất, hiền hoà, yêu lao động. Ngày nay, con sông này là nơi huyết mạch vận chuyển hàng hoá bằng đường thuỷ từ Khu Công nghiệp Khí - Ðiện - Ðạm Khánh An của người dân trong vùng và cũng là nơi cung cấp nguồn nước chính cho người dân vùng đất U Minh canh tác nông nghiệp. Giao thông đường bộ về Cái Tàu cũng cơ bản hoàn thiện, mấy cây cầu vững chãi bắc qua sông, như: cầu Khánh An (xã Khánh An), cầu Khai Hoang (xã Nguyễn Phích) đã xóa thế “lụy đò”.
Cây trái dọc ven con sông Cái Tàu có chút thay đổi, cây dâu bắt đầu thoái hóa, diện tích không còn nhiều như trước đây nữa. Đất và người Cái Tàu bắt đầu đổi thay tư duy theo hướng thuận thiên, vùng ngọt hóa của tỉnh Cà Mau có cái gì thì ở Cái Tàu có cái đó. Hiện trên địa bàn các xã đã áp dụng các mô hình: trồng bồn bồn kết hợp nuôi cá, trồng rau sạch trong nhà kính.
Vùng đất rừng còn vượt trội về sản vật tự nhiên nên người dân đã tận dụng tất cả lợi thế đó để hình thành nên các khu du lịch sinh thái, như: Hương Tràm, Hoa Rừng, Khang Huy, Ba Liêm. Những khu du lịch này đều có một điểm chung là hướng du khách tới những hoạt động trải nghiệm gắn với thiên nhiên: lấy mật ong, bắt cá đồng, hái rau dại. Mỗi năm, tỉnh Cà Mau duy trì tổ chức sự kiện “Hương rừng U Minh” tại các xã ở huyện U Minh (cũ) nhằm kích cầu du lịch. Có năm, sự kiện nấu nồi lẩu mắm lớn nhất Việt Nam hoặc “trình làng” tổ ong mật lớn nhất Việt Nam, ai về xứ này cũng đều xuýt xoa khen ngợi ăn món gì cũng “chất lừ” thương hiệu Cái Tàu - U Minh.
Từ trong hoang sơ, đói khổ, bị tàn phá bởi bom đạn và chất độc hóa học của chiến tranh, đất và người Cái Tàu vẫn hiên ngang đoàn kết trong công cuộc đổi mới. Cái Tàu – U Minh bốn mùa tràm thơm, sông chảy đã là dấu sao trên bản đồ du lịch, thu hút hàng triệu du khách về đây trải nghiệm tinh túy của đất trời và nghe câu chuyện mở đất một thời ở “xứ muỗi” Cà Mau.