Bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá biển không chỉ là bảo tồn những giá trị truyền thống lâu đời của các vùng ven biển mà còn góp phần vào việc khẳng định ý thức chủ quyền biển đảo quốc gia trong tình hình mới. Các địa phương ven biển ở khu vực phía Nam hàng năm luôn có nhiều hoạt động để bảo tồn các giá trị văn hoá biển, đặc biệt qua các lễ hội văn hoá biển.
Giữ hồn biển cả trong đời sống ngư dân Việt Nam
Lễ hội Nghinh Ông là một lễ hội có ý nghĩa sâu sắc đối với các ngư dân vùng biển. Việc tổ chức lễ hội không chỉ bày tỏ lòng thành kính, biết ơn đến cá Ông (cá Voi) - vị thần biển được xem là cứu tinh của ngư dân, cầu mong thời tiết thuận lợi, mùa màng bội thu và cuộc sống bình an cho cộng đồng vùng biển. Đồng thời đây cũng là hoạt động có ý nghĩa kết nối cộng đồng, thể hiện bản sắc văn hóa dân gian và tinh thần đoàn kết của ngư dân Việt Nam.
Lễ hội Nghinh Ông Cần Giờ (TP.HCM) là một trong những lễ hội nước lớn nhất của ngư dân Nam Bộ và đã được xếp hạng là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, còn mang ý nghĩa tôn vinh tinh thần yêu nước, quyết tâm bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
Từ ngày 15- 17/8 âm lịch hàng năm, địa phương cùng với ngư dân tổ chức lễ cầu ngư với các nghi thức: thượng kỳ, mừng công ngư dân, cúng bạn cũ lái xưa, cầu an,… tại Lăng Ông Thủy Tướng để cầu mong mùa cá bội thu, ngư phủ an toàn vươn khơi bám biển. Phần hội có nhiều hoạt động trò chơi dân gian, thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật truyền thống.
Lễ hội Nghinh ông Cần Giờ 2025 đã diễn ra vào tháng 10 vừa qua, gây ấn tượng đặc biệt với chương trình nghệ thuật đặc sắc với chủ đề “Nghinh Ông hào khí, khơi dòng thịnh vượng” và hơn 40 hoạt động văn hoá.
Không chỉ mở rộng về quy mô, Lễ hội Nghinh Ông 2025 còn ghi dấu ấn bởi chiều sâu văn hóa khi lần đầu tiên nghệ thuật hát bả trạo được chính thức lồng ghép vào chương trình lễ hội nhằm tái hiện sinh động tinh thần đoàn kết, tương trợ của ngư dân khi chèo thuyền vượt sóng, qua đó thắt chặt hơn nữa tình làng nghĩa xóm và gắn kết cộng đồng.
Theo bà Võ Thị Diễm Phượng - Phó Chủ tịch UBND xã Cần Giờ, không chỉ là hoạt động văn hoá, Lễ hội Nghinh Ông Cần Giờ còn được lồng ghép nhiều hoạt động giáo dục:
“Qua lễ hội này nhằm giáo dục cho thế hệ trẻ tình yêu quê hương, tình yêu biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc và qua đây cũng góp phần quảng bá cho du lịch của địa phương. Trong các hoạt động của lễ hội thời gian tới, Cần Giờ sẽ chú trọng đến hoạt động bảo vệ môi trường thiết thực, như: trồng cây, gây rừng, nhặt rác bãi biển,… phát động tại từng khóm, ấp của mình”.
Tại Cà Mau, Lễ hội Nghinh Ông Sông Đốc được xem là lễ hội dân gian lớn nhất tỉnh này và được xếp vào danh sách 60 lễ hội tiêu biểu ở Việt Nam. Xuất phát điểm là một lễ cầu ngư nhưng với bề dày lịch sử 100 năm, cùng tính sùng bái cao của hàng chục ngàn ngư phủ đi biển, Lễ hội Nghinh Ông Sông Đốc luôn là sự kiện lớn được tổ chức trang trọng và là điểm tựa về mặt tinh thần của nhiều thế hệ ngư dân vươn khơi bám biển. Ông Trần Văn Quốc – Chánh chủ Lăng Ông Nam Hải Sông Đốc, xã Sông Đốc, tỉnh Cà Mau cho biết:
“Khi đoàn tàu Nghinh Ông ra biển đến vùng nước xanh, tức là là vùng nước an toàn giữa hai làn nước ( cách cửa biển khoảng 10 cây số) thì đoàn tàu chọn vị trí an toàn, ổn định rồi tiến hành nghi thức thỉnh ông Nam Hải về chánh điện an vị. Nghi thức lễ là văn tế của 100 năm để lại. Lễ hội Nghinh Ông có mục đích yêu cầu là phục vụ đời sống tâm linh của ngư dân ền biển, thể hiện đức tin của ngư dân đối với Ông Nam Hải Đại tướng quân”.
Bảo tồn lễ hội để lan tỏa bản sắc và chủ quyền biển đảo
Còn tại Vĩnh Long, hàng năm, cứ từ ngày 6 đến 12 tháng 5 âm lịch, ngư dân xứ biển cũng rộn ràng với Lễ hội cúng biển Mỹ Long. Lễ hội Cúng biển Mỹ Long là sự tổng hợp ở mức độ cao của lễ hội Kỳ Yên (tín ngưỡng thờ Thần Thành Hoàng), lễ hội Vía Bà (tín ngưỡng thờ Mẫu) và lễ hội Nghinh Ông (tín ngưỡng thờ Đức Ông Nam Hải). Đây chính là nét đặc sắc mà không lễ hội cúng biển nào từ Trung Bộ vào Nam Bộ có được. Anh Trần Hoàng Long – ngư phủ ở xã Mỹ Long, tỉnh Vĩnh Long bày tỏ lòng tin vào lễ hội như một “tế bào” gìn giữ và phát huy lễ hội này lớn mạnh về sau:
“Mong muốn của chúng tôi luôn mưa thuận gió hòa, ngư dân đánh bắt thuận lợi. Tới ngày cúng Ông là tất cả ngư dân phấn khởi rước Ông về để Ông phổ độ cho dân chúng đánh bắt thuận buồm xuôi gió”.
Lễ hội biển từ cổ chí kim đều được xem là tài nguyên góp phần tạo điều kiện thuận lợi trong phát triển kinh tế và kích cầu du lịch, khẳng định văn hóa đặc sắc của quốc gia. Từ những giá trị đó mà lễ hội được Nhân dân đồng lòng gìn giữ, phát huy ngày lớn mạnh. Ông Lê Minh Út – Trưởng phòng Quản lý Văn hóa và Gia đình– Sở VHT&DL tỉnh Cà Mau cho biết:
“Hiện nay không gian Lễ hội Nghinh Ông Sông Đốc cũng còn nhỏ hẹp lắm nên mình muốn quảng bá rộng rãi. Trong chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa có đưa mục tiêu này vào để bảo tồn và phát huy. Ngân sách do Bộ VHTT&DL cấp về 90%, còn lại 10% là vốn đối ứng, khi có vốn chúng tôi sẽ tiến hành thực hiện ngay”.
Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng, đề cao giá trị các di sản văn hóa, trong đó có giá trị văn hoá vùng biển. Bảo tồn, phát huy và lan toả những giá trị văn hoá biển thông qua các hoạt động du lịch, kinh tế xã hội không chỉ giúp cải thiện đời sống ngư dân, động lực phát triển kinh tế cho các địa phương mà còn giúp định vị thương hiệu của các vùng biển. Lan toả tình yêu và ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo của ngư dân và người dân trên cả nước.
Phát huy giá trị văn hóa biển, đảo: Từ niềm tin ngư dân đến sức mạnh quốc gia
Bảo tồn và phát huy văn hóa biển, đảo có vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển đất nước. Nhưng để làm tốt công tác này, chúng ta cần phải làm gì?
VOV Giao thông đã có cuộc trò chuyện với Nhà nghiên cứu văn hóa Nhâm Văn Hùng để có thêm những gợi mở cho vấn đề này:
Phóng viên: Xin chào ông, trước tiên xin mời ông có thể nói rõ hơn về khái niệm “văn hóa biển, đảo” để công chúng được rõ hơn?
Ông Nhâm Văn Hùng: Văn hóa biển đảo của Việt Nam đã có từ hàng ngàn năm, ngay từ khi lập quốc, đó là những giá trị được hình thành, sinh sôi, được sáng tạo từ đời sống của cư dân ền biển. Văn hóa vật thể, gồm: công trình đê điều, tàu thuyền, phương tiện đánh bắt và nuôi trồng. Văn hóa phi vật thể thì có lễ hội, tín ngưỡng dân gian.
Phóng viên: Truyền thống lâu đời của văn hóa biển, đảo Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng là gì, thưa ông?
Ông Nhâm Văn Hùng: Trước tiên là niềm tin của con người đối với biển cả mênh mông, biển giúp con người no ấm, nhờ biển mà Tổ quốc Việt Nam tồn tại qua hàng ngàn năm. Trước tiên là tục thờ cá Ông, đối với người dân, họ tin rằng cá Ông cứu giúp người đi biển vượt qua hoạn nạn, nên cá Ông bị trôi dạt đều phải cứu Ông. Cá Ông qua đời thì người dân tiến hành chôn cất đàng hoàng và lập lăng thờ cá Ông. Bên cạnh đó, nghề đi biển thường hay thờ các vị Nữ Thần, ví dụ như Quan Thế Âm Bồ Tát. Ở tỉnh Bạc Liêu cũ (nay là tỉnh Cà Mau) có tượng mẹ Nam Hải phò hộ người đi biển, người đi biển đến đây van vái ra khơi được thuận buồm xuôi gió. Đây là văn hóa nhớ ơn, vừa tâm linh vừa là văn hóa của người đi biển.
Phóng viên: Giá trị của văn hóa biển, đảo cần phải được bảo tồn và phát huy. Vậy theo ông để thực hiện được điều này, chúng ta cần có những giải pháp gì, đặc biệt là việc bảo tồn lễ hội tín ngưỡng biển tại một số địa phương có biển ở ĐBSCL. Theo ông, văn hóa biển, đảo có phải là sức mạnh mềm để giữ vững biên giới, phát triển kinh tế và hội nhập?
Ông Nhâm Văn Hùng: Xu thế của thế giới ngày càng coi trọng kinh tế biển, mà kinh tế biển bao giờ cũng được thúc đẩy từ văn hóa biển. ĐBSCL có nhiều lễ hội biển đặc sắc, như: Lễ cúng biển Trần Đề ( Sóc Trăng cũ), Lễ cúng biển Mỹ Long ( Trà Vinh cũ), lễ Nghinh Ông Sông Đốc (tỉnh Cà Mau),… những lễ hội này vừa qua rất thiết thực, vừa mang sắc thái văn hóa vừa đậm chất dân tộc. Sắp tới những lễ hội này nên mở rộng quy mô, không chỉ ở làng/xã mà phải là cấp tỉnh/thành để nhiều người biết.
Tổ chức lễ hội biển làm tăng thêm niềm tin của Nhân dân vào chủ quyền biển đảo, cổ vũ mọi người cùng giữ gìn và phát huy văn hóa biển đảo. Tổ chức tour tuyến du lịch từ sông nước ệt vườn trải dài ra biển gắn với lễ hội biển cũng là cách nâng tầm lễ hội. Cần thiết xây dựng không gian văn hóa biển, trong đây ta bảo vệ các giá trị vật thể, như: xương cá Ông, tàu thuyền đánh cá xưa, thuyết nh về lịch sử cha ông ta khẩn hoang từ đường biển.
Từ điều đó chứng nh rằng, ĐBSCL này có 300 năm hình thành gắn liền với văn hóa biển đảo. Tôn vinh văn hóa biển, đảo như sức mạnh mềm để góp phần bảo vệ và xác lập chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.
Phóng viên: Cảm ơn ông đã chia sẻ!