Năm 2011, Tuyến Nam Sông Hậu qua 4 tỉnh, thành phố gồm: Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu được thông xe toàn tuyến. Trong đó, đoạn đi Sóc Trăng dài nhất với khoảng 117km. Là tuyến đường huyết mạch, thế nhưng đang phải gồng mình với lượng người và phương tiện lưu thông qua ngày càng đông. Nhiều đoạn, mặt đường xuất hiện nhiều ổ gà, bong tróc, sụt lún, nước đọng vũng.
Trước thực trạng này, ông Trần Văn Lâu, Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng đề xuất Trung ương quan tâm, chỉ đạo dự án nâng cấp, cải tạo tuyến Quốc lộ Nam Sông Hậu để đáp ứng yêu cầu phát triển và đảm bảo an toàn giao thông: Quốc lộ Nam Sông Hậu (Quốc lộ 91B) hiện nay từ Hậu Giang qua Sóc Trăng, Bạc Liêu hiện nay đường rất hẹp, bị hư rất nhiều. Quốc lộ này lượng xe rất lớn, tuyến biển. Cho nên rất mong Thủ tướng, Phó Thủ tướng quan tâm để chỉ đạo đầu tư, mở rộng dự án Quốc lộ Nam Sông Hậu (Quốc lộ 91B).
Không chỉ riêng Sóc Trăng mà Cần Thơ, Hậu Giang, Bạc Liêu đều đã lên tiếng về việc cần đầu tư, nâng cấp cho tuyến Nam Sông Hậu. Sự xuống cấp của tuyến quốc lộ huyết mạch này không còn là vấn đề kỹ thuật đơn thuần mà đang trở thành rào cản trực tiếp đối với phát triển kinh tế của cả vùng.
Ông Trương Cảnh Tuyên, Chủ tịch UBND TP. Cần Thơ cho rằng, tuyến Nam Sông Hậu là tuyến giao thông hết sức quan trọng đối với các địa phương nằm dọc sông Hậu, giúp kết nối thuận lợi với các tuyến cao tốc và tuyến đường ven biển hình thành trong tương lai.
Ông Tuyên cũng cho biết thêm, bên cạnh Nam Sông Hậu, dự án nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 61C đoạn qua Cần Thơ và đường kết nối quận Ô Môn, huyện Thới Lai, Cần Thơ với huyện Giồng Riềng, Kiên Giang đoạn qua Cần Thơ cũng cần được thực hiện nhanh chóng. Ông Trương Cảnh Tuyên, Chủ tịch UBND thành phố Cần Thơ cho biết: Vừa qua thành phố Cần Thơ cũng được Bộ Tài chính đã thẩm định và trình Thủ tướng về dự án của JICA tài trợ, đó là dự án 2 hợp phần, hợp phần 1 là Quốc lộ 61C, hợp phần 2 là dự án đường kết nối quận Ô Môn và Thới Lai đến huyện Giồng Riềng của tỉnh Kiên Giang hiện nay đảm bảo tính liên kết nó hiệu quả hơn thì cũng kiến nghị, xem xét bổ sung hoặc tách ra cầu Ô Môn qua Sông Hậu, tức là nối giữa thành phố Cần Thơ qua huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp, đảm bảo kết nối được với các tỉnh.
Còn đối với tỉnh Bạc Liêu, ông Phạm Văn Thiều, Chủ tịch UBND tỉnh Bạc Liêu vừa kiến nghị Trung ương sớm đầu tư nâng cấp tuyến quốc lộ 1 qua địa bàn tỉnh. Nguyên nhân theo ông Thiều, do lưu lượng phương tiện tham gia giao thông trên tuyến đường này ngày càng đông, trong khi đó Quốc lộ 1A từ huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng về tới Bạc Liêu mặt đường nhỏ, hẹp, xuống cấp không đáp ứng được yêu cầu đi lại, giao thương hàng hoá: Dù có tuyến đường Quản lộ Phụng Hiệp nhưng không phục vụ hết, người ta vẫn đi trên Quốc lộ 1A, từ Cà Mau lên Sóc Trăng, Cần Thơ, thành phố Hồ Chí Minh. Mở rộng Quốc lộ 1A có nghiên cứu tiền khả thi rồi, Bộ giao thông đã nghiên cứu và báo cáo Thủ tướng rồi, do vậy nên phân bổ vốn đầu tư giao đoạn này để phát triển Quốc lộ 1A, phục vụ trung chuyển hàng hoá và đi lại của người dân.
Cùng quan điểm này, ông Hồ Văn Mừng, Chủ tịch UBND tỉnh An Giang cho rằng, Trung ương cần quan tâm đầu tư các công trình hạ tầng giao thông then chốt nhằm nâng cao hiệu quả kết nối liên vùng, đặc biệt là tại các khu vực biên giới: Hiện nay các tỉnh ền Tây cũng sáp nhập lại, thời gian tới, đề nghị Bộ Xây dựng quan tâm cho các tuyến quốc lộ, quốc lộ là Bộ quản lý. Ví dụ hiện nay từ An Giang qua Kiên Giang chúng tôi đang đi đường qua Cần Thơ, nối với quốc lộ 80 đi qua Kiên Giang rất hẹp. Qua Kiên Giang làm việc, trên đường bản thân chứng kiến mấy vụ tai nạn giao thông, học sinh đông. Mong Trung ương quan tâm đầu tư và chung cho các địa phương khác đối với các tuyến quốc lộ để kết nối thuận lợi hơn.
Trong bối cảnh hạ tầng giao thông vẫn là “nút thắt” lớn nhất của vùng ĐBSCL, việc nhanh chóng cụ thể hóa các đề xuất thành các dự án có tính khả thi, đồng bộ và sát với nhu cầu thực tế sẽ là bước đi quan trọng để ĐBSCL chuyển mình mạnh mẽ, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.
Điểm nghẽn đã được nhận diện, quan trọng là cần tập trung mọi nguồn lực để thực hiện
Từ nơi được coi là “vùng trũng” về giao thông, nhưng chỉ trong thời gian ngắn, mạng lưới hạ tầng giao thông ĐBSCL đã có sự chuyển biến tích cực, ngày càng hoàn thiện với nhiều cây cầu hiện đại cùng cao tốc đã và đang được đầu tư giúp vùng đất Chín Rồng vững tin bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của hội nhập, phát triển bền vững và khẳng định vị thế dân tộc.
Tuy nhiên, hạ tầng giao thông liên tỉnh và quốc lộ vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, đặc biệt với việc đưa vào sử dụng thời gian dài đã khiến nhiều tuyến đường xuống cấp, hư hỏng, mặt đường nhỏ hẹp.
Thực tế đáng buồn là những tuyến đường liên tỉnh quan trọng như Quốc lộ Nam Sông Hậu, Quốc lộ 61C hay các trục nối biên giới dù mang trên vai kỳ vọng phát triển chung nhưng mặt đường xuống cấp, quy mô không theo kịp nhu cầu. Không tỉnh nào đủ sức tự mình giải quyết nhưng nếu không cùng nhau tháo gỡ, cả vùng sẽ cùng chậm lại.
Điều đáng mừng mới đây, lãnh đạo các địa phương từ Sóc Trăng, Hậu Giang, Bạc Liêu đến An Giang đã kiến nghị lên Thủ tướng Chính phủ nỗi lo chung của đồng bằng, những kiến nghị đã mang tính kết nối rõ rệt, không chỉ nâng cấp tuyến đường qua tỉnh mình mà còn quan tâm đến các trục huyết mạch gắn với tỉnh bạn, đến cảng biển, cao tốc, quốc lộ. Đó là cách nhìn đúng.
Bởi hệ thống hạ tầng không thể mạnh nếu chỉ từng đoạn nhỏ được cải tạo riêng lẻ. Muốn tháo gỡ điểm nghẽn, phải tháo từ tư duy liên tỉnh, liên kết vùng.
Thủ tướng Chính phủ đã thẳng thắn chỉ ra, để có được sự bứt phá thật sự, các địa phương không thể chỉ “kiến nghị” rồi chờ ngân sách trung ương. Trung ương sẽ lo phần kết nối quốc gia và quốc tế, bản thân mỗi tỉnh phải là chủ thể hành động.
Với sự đẩy mạnh phân cấp, phân quyền theo phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”, cơ hội để ĐBSCL tạo ra bứt phá về hạ tầng chưa bao giờ rõ ràng như hiện nay. Đây là lúc các địa phương cần phát huy vai trò chủ động - không chỉ là người kiến nghị mà là người dẫn dắt, kiến tạo và đồng hành.
Cơ chế đã mở, dư địa đã có, vấn đề còn lại là tư duy hành động và tinh thần hợp tác. Thay vì trông chờ, các tỉnh trong vùng cần ngồi lại, nhìn chung một bản đồ phát triển, xác định rõ đâu là ưu tiên vùng, đâu là dự án “xương sống” cần đầu tư chung. Chỉ khi từng tỉnh coi sự phát triển của tỉnh bạn là lợi ích của chính mình, mới có thể xây dựng một hệ thống giao thông liên tỉnh đúng nghĩa - không chỉ là những tuyến đường kết nối, mà là những mạch máu phát triển.
Quan trọng nhất là cùng nhau hành động, không dẫm chân nhau, không mạnh ai nấy làm. Đường liên tỉnh nếu làm đúng cách sẽ là con đường chung đi tới phát triển cho cả vùng ĐBSCL.